Thursday, September 1, 2022

TỔNG LƯỢC VỀ TRẬN ĐÁNH TÁI CHIẾM CỔ THÀNH QUẢNG TRỊ Chu Tất Tiến.

Tháng 12, năm 2020, một nhóm người trẻ thuộc thế hệ thứ 2 đã xin được sự đồng thuận 5/5 của thành phố Westminster cho phép xây dựng Tượng Đài tưởng niệm hơn 5,000 Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong khi Tái Chiếm Cổ Thành Quảng Trị tại thành phố Westminster. Ngày 6 Tháng Sáu, tại công viên Sid Goldstein Freedom Park, không xa Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, một lễ động thổ tưng bừng với sự tham dự của nhiều đoàn thể quân nhân, dân sự và tôn giáo đã diễn ra trong sự mừng vui của đồng bào hải ngoại. Những tưởng là Tượng Đài sẽ được dựng sau ngày động thổ không xa.


Nhưng bất ngờ, ngay sau lễ Động Thổ, một nghị viên đã kêu gọi một cuộc họp khẩn cấp để tạm ngưng quyết định trước đây cho phép xây dựng Tượng Đài trong khuôn viên thành phố Westminster. Sau đó là dư luận chống đối tràn ngập trên mạng Internet, khiến cho việc xây dựng Tượng Đài Anh Linh bị hủy bỏ hoàn toàn. Thời gian đầu thì dư luận chỉ chống đối theo định kiến hay tư thù cá nhân, nhưng dần dần, các dư luận viên đã đưa ra nhiều thông tin sai lạc về trận đánh oai hùng này. Một dư luận viên đã công khai xúc phạm danh dự và chiến công của những người lính Mũ Xanh, cho rằng khi Thủy Quân Lục Chiến tiến vào Cổ Thành thì thành phố đã tan nát dưới mưa pháo TOT, không còn bóng người lính Cộng Sản nào, có nghĩa là những người lính Mũ Xanh không phải là những người hùng thật sự mà chỉ là người “tọa hưởng kỳ thành”, nhận vơ công trạng của bom, pháo!

Vì thế, với ước mong soi tỏ một chiến công hiển hách của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. người viết đã tổng hợp một vài nguồn tin lớn về trận đánh này. Bài viết tóm lược 3 nguồn tin trên Internet và một bài phỏng vấn các nhân vật chính trong cuộc xung kích vào Cổ Thành Quảng Trị dẫn đến một chiến thắng oanh liệt.
1) Trước hết là bài viết trong “history.com”:
(https://www.history.com/.../south-vietnamese-forces...)
(Người viết lược dịch:)

Lực Lượng Nam Việt Nam tái chiếm Thành Phố Quảng Trị.
Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đã tái chiếm được Thành Phố Quảng Trị sau 4 ngày chiến đấu dữ dội, đã tiêu diệt hơn 8,135 quân đội Bắc Việt. Quân miền Bắc đã tung ra một cuộc tấn công khổng lồ, gọi là Cuộc Tiến Công Nguyễn Huệ hay “Tấn Công Ngày Lễ Phục Sinh” vào ngày 31 tháng 3, với 3 trục tấn công chính: Một, nhắm vào Quảng Trị, phía Nam của Khu Quân Sự; hai, Kontum ở miền Cao Nguyên; và An Lộc chỉ 60 dặm cách thành phố Saigon. Cuộc tổng tiến công này gồm 12 Sư đoàn và 26 Trung đoàn độc lập, tổng cộng lực lượng của Miền Bắc là 120,000 bộ đội. Mục đích của chiến dịch này là đánh tan miền Nam và đồng thời tạo ra thất bại cho những quân nhân Mỹ còn ở lại Việt Nam (lúc này chỉ còn hơn 70,000 vì chính sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh của Tổng Thống Nixon đã dần dần rút gần hết quân đội ra khỏi miền Nam.) Quân Miền Bắc đã sử dụng tất cả lực lượng vũ khí của cuộc chiến tranh kinh điển, các xe tăng, và lực lượng bộ binh được hỗ trợ bởi trọng pháo hạng nặng, nên đã tạo nên một trận đánh kinh hoàng trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.
Quân miền Nam và những Cố Vấn Quân Sự Hoa Kỳ được hỗ trợ bởi không quân chiến thuật Mỹ và pháo đài bay B-52 đã có thể giữ được An Lộc và Kontum bất chấp bị tràn ngập bởi lực lượng Bắc Việt đông gấp nhiều lần, tuy nhiên, lực lượng miền Nam đã không thể giữ được Quảng Trị dưới các cuộc tấn công ác liệt của Cộng Sản, và thành phố này đã bị Cộng Quân chiếm giữ một cách nhanh chóng. Sau trận thất bại này, Tổng Thống Thiệu đã sa thải Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và thay thế bằng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, người được coi như là vị Tướng tài danh nhất của Quân đội Miền Nam, và hy vọng là Tướng Trưởng sẽ chặn đứng cuộc xâm lăng của phe Cộng Sản.. Tướng Trưởng đã phối trí lại quân đội miền Nam và bắt đầu phản công. Sau hơn 4 tháng rưỡi chiến đấu đẫm máu với “hàng ngàn” (*) chiến sĩ miền Nam hy sinh, Tướng Trưởng và quân lực của ông ta đã tái chiếm Quảng Trị, tạo nên một chiến thắng lẫy lừng. Tổng Thống Nixon đã dùng chiến thắng này để chứng minh rằng chính sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh đã thành công và người dân miền Nam đã sẵn sàng để lãnh hoàn toàn trách nhiệm trong cuộc chiến này.
(*) Thiếu sót.
2) Nguồn Internet của Cộng Sản Việt Nam:
()https://vi.wikipedia.org/.../Tr%E1%BA%ADn_Th%C3%A0nh_c%E1...
Trận Thành cổ Quảng Trị là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam với Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại khu vực thành cổ Quảng Trị vào năm 1972. Đây là một trong những trận chiến ác liệt nhất của Chiến dịch Xuân Hè 1972 trong Chiến tranh Việt Nam.
Trận chiến kéo dài trong suốt 81 ngày đêm, sau khi liên tiếp đưa vào các đơn vị bộ binh cũng như sử dụng hỏa lực bom đạn cực kỳ lớn, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã thành công trong việc tái chiếm lại Thành cổ nhưng vẫn không thể giành lại nửa Bắc của tỉnh Quảng Trị. Tuy vậy về mặt chiến lược, sự kháng cự mạnh mẽ của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã khiến kế hoạch tái chiếm thành cổ của đối phương bị kéo dài tới 3 tháng so với kế hoạch ban đầu là 2 tuần….
Thành cổ Quảng Trị nằm gần Quốc lộ 1, đây là tiền đồn phòng thủ của Vùng I chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa. Giành được Thành cổ sẽ có giá trị lớn về tính biểu tượng. Tin tức về việc Quảng Trị rơi vào tay Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tác động mạnh mẽ tới chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Ngày 25 tháng 5 năm 1972, Tổng thống Thiệu đưa ra cam kết bằng mọi giá tái chiếm Quảng Trị cũng như trách móc phía Hoa Kỳ đang bỏ rơi đồng minh. Lúc này, trong Quốc hội Hoa Kỳ, tiếng nói đòi rút quân Mỹ khỏi Việt Nam ngày càng gia tăng….
Sau khi mở Chiến dịch Trị Thiên từ tháng 3 năm 1972, sau 2 đợt tấn công, đến tháng 5 thì Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã giành quyền kiểm soát được toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Đây cũng là thời điểm mà Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang bổ sung lực lượng chuẩn bị cho đợt tấn công thứ 3 vào Thừa Thiên.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa: Các Lữ đoàn dù 1, 2, 3; Liên đoàn 81/Biệt kích nhảy dù; Thiết đoàn 7, 18 kị binh; 3 lữ đoàn thuỷ quân lục chiến và các tiểu đoàn pháo, công binh… Tổng cộng hơn 30.000 quân cùng hàng trăm xe tăng, xe thiết giáp.
Quân đội Hoa Kỳ: Nhiều cố vấn chỉ huy cùng hàng trăm máy bay chiến đấu, bao gồm cả B-52 ném bom chiến lược của không quân Hoa Kỳ, pháo hạm yểm trợ từ Hạm đội 7.
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam: Lực lượng phòng thủ trên toàn thị xã Quảng Trị bao gồm Trung đoàn 48 (sư đoàn 320B), Trung đoàn Triệu Hải, tức E27 sư đoàn 320B (sau này là F390) Trung đoàn 95 (sư đoàn 325) Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, 2 tiểu đoàn địa phương đóng ở Quảng Trị. Chi viện trực tiếp cho lực lượng này là các đơn vị còn lại của Sư đoàn 325 và Sư đoàn 312. Ngoài ra, sườn phía tây thị xã do trung đoàn 88 (thiếu) của sư đoàn 308 chốt giữ…
Trung tuần tháng 8 năm 1972, Bộ Tư lệnh B5 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định giao nhiệm vụ cho sư đoàn 325 chỉ huy lực lượng phòng thủ Thành cổ Quảng Trị…
Sau 4 tháng 16 ngày (81 ngày đêm) cố thủ tại Cổ Thành và thị xã Quảng Trị, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam rút lui khỏi Thành cổ. Riêng trung đoàn Triệu Hải (trung đoàn 27 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam-trung đoàn trưởng sau này là thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu) với 1.500 quân đưa vào thành cố thủ là đơn vị tổn thất nặng nhất. Các chốt chiến đấu vòng ngoài đều bị xóa sổ, trung đoàn 48B thuộc sư đoàn 390 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam – đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt hại hơn 80% quân số. Trong một hồi ký phổ biến vào năm 1997, trung tướng Lê Tự Đồng, nguyên tư lệnh lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại mặt trận tỉnh Quảng Trị, ghi nhận là các sư đoàn và trung đoàn tham chiến đã bị tổn thất quá nửa quân số…
Về hồi ức cá nhân, Ðại Tá Vũ Trung Thướng, trong trận Quảng Trị năm 1972 là Chính Trị Viên của Ðại Ðội 5, Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 48, Sư Ðoàn 320 quân Bắc Việt, đã kể lại như sau: “…từ ngày 28/6 đến ngày 16/9/1972, Đại đội 5 của tôi từ 120 quân, nhưng sau đó chỉ còn 17 người sống sót.”
Sau 12 tuần lễ liên tục tổng công kích với sự hỗ trợ hỏa lực tối đa của quân đội Hoa Kỳ, đến giữa đêm ngày 15 rạng ngày 16 tháng 9 năm 1972, lực lượng Thủy quân Lục chiến đã tiến vào thị xã Quảng Trị và kiểm soát toàn bộ khu vực Cổ Thành. Rạng sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972, hai tiểu đoàn 3 và 6 Thủy quân Lục chiến từ các vị trí vừa chiếm được trong Cổ Thành, đã bung ra lục soát và đánh các chốt còn lại của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đến 8 giờ sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972, một toán Cọp Biển của tiểu đoàn 6 Thủy quân Lục chiến đã dựng cờ của Việt Nam Cộng hòa trên cổng tường phía Tây Cổ Thành Quảng Trị, biểu tượng cho việc Quân lực VNCH đã hoàn tất cuộc tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
3) Bài viết trong Website của Hội Ái Hữu Petrus Ký:
(https://petruskyaus.net/tai-chiem-quang-tri-tran-danh.../ )
Tái Chiếm Quảng Trị: Trận Ðánh Ðẫm Máu Nhứt Trong Chiến Tranh Việt Nam.
Tác giả: Lâm Vĩnh Thế.
Ngày 30-3-1972, 3 sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt vượt Khu Phi Quân Sự tấn công vào các căn cứ phòng thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ở phía Bắc và phía Tây của tỉnh Quảng Trị thuộc Vùng I. Cuộc Tổng Tấn Công 1972, mà giới truyền thông Hoa Kỳ gọi là The Easter Offensive thật sự bắt đầu. Ba ngày sau, 3 sư đoàn khác của CSBV tấn công vào An Lộc, tỉnh lỵ của tỉnh Bình Long ở Vùng III, cách Sài Gòn 60 km về hướng Bắc. Và ngày 14-4-1972, tỉnh Kontum thuộc Vùng II cũng bị 2 sư đoàn CSBV tấn công. Tại vùng I, ngày 2-5-1972, tỉnh Quảng Trị lọt vào tay quân CSBV sau khi Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh của QLVNCH, quyết định rút khỏi căn cứ Cổ Thành Quảng Trị (có tên là Cổ Thành Ðinh Công Tráng). Ngày hôm sau, 3-5-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, đang là Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, thay thế Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm trong chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn I. Ngay chiều hôm đó, cùng với một số sĩ quan thân cận trong bộ tham mưu của mình, Tướng Trưởng bay ngay ra Huế… Sau một thời gian cấp tốc ổn định tình hình tại Huế, Tướng Trưởng tổ chức cuộc hành quân lấy tên là Chiến Dịch Lam Sơn 72 nhằm phản công để tái chiếm Quảng Trị. Chiến Dịch Lam Sơn 72 chính thức kết thúc khi QLVNCH đã toàn thắng và chiếm lại được Cổ Thành Quảng Trị vào ngày 15-9-1972…
Ngày 28-6-1972 Chiến dịch Lam Sơn 72 chính thức bắt đầu, với 2 mũi tấn công chính về hướng Bắc, phối hợp với một mũi phụ về hướng Tây Nam Huế…Tướng Trưởng quyết định giao cho Sư Ðoàn Nhảy Dù làm mũi tấn công chính trong cuộc hành quân quan trọng này. Hướng tấn công của Sư Ðoàn Dù là phía Tây Nam Quốc Lộ 1, tiến về phía La Vang. Mũi tấn công thứ nhì ở phía Bắc được giao cho Sư Ðoàn TQLC, dọc theo hương lộ 555, tiến về phía Triệu Phong. Mũi tấn công phía Tây Nam Huế là trách nhiệm của Sư Ðoàn 1 BB. Phía Nam đèo Hải Vân, trách nhiệm bảo vệ Ðà Nẳng được giao cho Sư Ðoàn 3 BB đang được tái thiết và tái huấn luyện dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh mới là Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Hinh
Cuộc phản công hướng về phía Bắc với hai Sư Ðoàn Dù và TQLC, với mục tiêu là chiếm lại cho được Quảng Trị, có thể được xem như gồm 2 đợt:
• Đợt 1: từ ngày 28-6-1972 đến ngày 27-7-1972 với Sư Ðoàn Dù là lực lượng chính
• Ðợt 2: từ ngày 27-7-1972 đến ngày 16-9-1972 khi toàn thắng, chiếm lại được Cổ Thành Ðinh Công Tráng (Quảng Trị), với Sư Ðoàn TQLC là lực lượng chính.
Ðợt 1 của cuộc tấn công với Sư Ðoàn Dù
Sau khi nhận nhiệm vụ tại Quân Ðoàn 1, Tướng Trưởng đã yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu tăng viện cho ông để trám vào sự mất mát của Sư Ðoàn 3 BB, và đã được tăng viện 2 Lữ Ðoàn của Sư Ðoàn Dù. Lữ Ðoàn 2, với Lữ Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Trần Quốc LỊch (về sau thăng lên Chuẩn Tướng, làm Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, đến Huế vào ngày 8-5-1972 và được Tướng Trưởng điều động lên ngay mặt trận phía Bắc, trấn giữ phòng tuyến dọc bờ Nam của sông Mỹ Chánh, cùng với Lữ Ðoàn 258 (với Lữ Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Ngô Văn Ðịnh) của Sư Ðoàn TQLC. Lữ Ðoàn 3, với Lữ Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Trương Vĩnh Phước, cũng được tăng viện cho Vùng I vào ngày 22-5-1972. Ngay sau đó, Bộ Chỉ Huy của Sư Ðoàn Dù, với Tư Lệnh là Trung Tướng Dư Quốc Ðống, cũng bay ra Vùng I, và đặt tại Bải Ðổ Quân Sally ở phía Nam Sông Bồ, ngay bên cạnh Quốc Lộ 1.
Cổ Thành Đinh Công Tráng được xây dựng vào năm 1823 thời vua Minh Mạng. Lúc mới xây thành làm bằng đất; đến năm 1838 thì mới được xây lại bằng gạch. Thành hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 500 m, nên chu vi của thành gần 2000 m. Tường thành cao 9,4 m, dưới chân dày 12 m. Bao quanh thành có hào rộng 4 m, sâu 8 m, bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài…Với quy mô kiên cố của thành như vậy, với quyết tâm tử thủ của các lực lượng địch chống giữ thành, cùng với sự yểm trợ tối đa của các đơn vị chiến xa, pháo binh, và phòng không của địch, các cánh quân Dù đã bị tổn thất rất nặng nề với những số thương vong rất lớn. Nhưng ngược lại với các đợt oanh kích phi pháo của hải quân và không quân Hoa Kỳ (máy bay B-52 trải thảm), quân Bắc Việt cũng phải trả giá rất đắt trong việc chống giữ Cổ Thành Ðinh Công Tráng.
Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 5 Dù, lực lượng tấn công chinh, chỉ định Ðại Ðội 51, với Ðại Úy Trương Ðăng Sỹ làm Ðại Ðội Trưởng, và Ðại Ðội 52, với Trung Úy Hồ Tường làm Ðại Ðội Trưởng, cùng song song tiến lên trước. Cuộc tiến quân vô cùng khó khăn vì sự chống trả quyết liệt của địch…
Lời kể lại cuộc tiến quân của chính Ðại Úy Sỹ như sau:
Từ làng Trí Bưu, về hướng Tây Bắc, mục tiêu kế tiếp là Nhà Thờ Trí Bưu. Tôi và Hồ Tường song song bung đội hình từng bước tiến lên, nhường làng Trí Bưu lại cho Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn. Đoạn đường từ đây đến Nhà Thờ Trí Bưu khoảng vài trăm thước cũng không phải dễ đi …Tôi đã xử dụng tất cả hỏa lực yểm trợ: 18 khẩu 105 ly, cơ hữu Nhảy Dù, 4 khẩu 155 ly, 2 khẩu 175 ly của Quân đoàn 1…Ngày nào cũng có ít nhất hai phi tuần oanh tạc. Ban đêm, thỉnh thoảng còn được hải pháo từ Đệ nhất hạm đội bắn yểm trợ. Nếu cần thiết, còn được 18 khẩu 105 ly của Thủy quân Lục chiến tăng cường. Ngày nào ít lắm cũng có một hay hai lần bắn “T.O.T”.
Có lúc chúng tôi phải tiến quân trong mưa bụi của pháo binh, mục đích không cho địch quân ngóc đầu khỏi hố. Tôi áp dụng chiến thuật từng bước nhảy vọt. Hồ Tường tiến tới từ 50 đến 100m thì dừng lại bố trí, 51 tiến lên qua mặt 52, rồi lại tiến lên 50m đến 100m dừng lại hầm hố bố trí, cứ thế tiến dần Nhưng sức kháng cự của địch quân còn quá mạnh, nhất là bên cánh phải còn khu làng nhỏ sát bờ sông Thạch Hãn, địch bắn qua quá rát. Ban đêm đôi lúc chúng tôi còn nghe cả tiếng chiến xa địch.
Trước thực tế chiến trường như vậy, nhiều đơn vị đã được tăng phái cho mũi dùi tấn công của hai Ðại Ðội 51 và 52 của Tiểu Ðoàn 5 Dù, (nhưng rồi) cuộc tấn công của Tiểu Ðoàn 5 Dù vào Cổ Thành Ðinh Công Tráng phải tạm ngưng. Ngày hôm sau, 26-7-1972, có lệnh từ Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cho Sư Ðoàn Dù bàn giao việc tấn công Cổ Thành lại cho Sư Ðoàn TQLC.
Ðợt 1 của cuộc tấn công với Sư Ðoàn TQLC
Ngay từ ngày đầu của Chiến dịch Lam Sơn 72, 28-6-1972, thi hành lệnh của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, tân Tư Lệnh của Sư Ðoàn TQLC, đã điều động ngay 4 tiểu đoàn tác chiến là các Tiểu Ðoàn 3,5,7 và 8 tiến lên phía Bắc, dọc theo bờ biển, bên phía Ðông của Quốc Lộ 1, song song với Sư Ðoàn Dù. Các tiểu đoàn TQLC đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của các đơn vị của Sư Ðoàn 304 Bắc Việt đóng chốt trong hàng loạt các công sự bê tông vững chắc (bunkers).
Ngày 27-7-1972, Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân đưa ra kế hoạch hành quân tấn công tái chiếm Cổ Thành Ðinh Công Tráng như sau:
-Lữ Ðoàn 258, với Lữ Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Ngô Văn Ðịnh, trước sau đã sử dụng tất cả 7 tiểu đoàn tác chiến của TQLC là các Tiểu Ðoàn 1,2,3,5,6,8,9, Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh 105 ly của Sư Ðoàn TQLC, Thiết Ðoàn 17 (thuộc Lữ Ðoàn 1 Kỵ Binh, với các thiết vận xa M-113, Chỉ Huy Trưởng là Trung Tá Nguyễn Viết Thạnh), và 1 Chi đoàn chiến xa M48, chịu trách nhiệm khu vực phía Tây Nam của Cổ Thành, sẽ là lực lượng tấn công chính vào Cổ Thành; ngoài ra, tại Bộ Chỉ Huy của Lữ Ðoàn 258 TQLC lúc nào cũng có sự hiện diện của một toán gồm 10 cố vấn Hoa Kỳ, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Gordon Keiser, TQLC Hoa Kỳ, Cố Vấn Trưởng của Lữ Ðoàn 258, “chuyên đảm nhiệm thiết lập kế hoạch hoả lực yểm trợ cũa Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ từ Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm 77 của Hạm Ðội 7 ngoài Thái Bình Dương và các phi vụ phi cơ chiến lược B52 từ Guam và Thái Lan.”[19]
-Lữ Ðoàn 147, với Lữ Ðoàn Trưởng là Trung Tá Nguyễn Năng Bảo, sử dụng 3 tiểu đoàn tác chiến và Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh của TQLC, phụ trách khu vực phía Ðông Bắc của Cổ Thành, là lực lương tấn công phụ vào Cổ Thanh và ngăn chận viện quân của địch từ phía Bắc kéo xuống.
-Lữ Ðoàn 369, với tân Lữ Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Nguyễn Thế Lương (thay thế Ðại Tá Phạm Văn Chung lên làm Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn TQLC), làm lực lượng trừ bị.
Sáng ngày 27-7-1972, Tiểu Ðoàn 3 TQLC tiến vào thay thế các đơn vị của Tiểu Ðoàn 5 Dù ở phía Nam Cổ Thành, cách bờ thành vào khoảng 200 m. Khi các đơn vị của Tiểu Ðoàn 3 TQLC tiến lên thì cũng bị địch chống trả mảnh liệt như đối với Tiểu Ðoàn 5 Dù trước đây. Sau 2 tuần lễ giao tranh, với tỹ lệ thương vong gần 50% (400/700), Tiểu Ðoàn 3 được lệnh rút về gần Bộ Chỉ Huy của Lữ Ðoàn 258 ở Cù Hoan để dưỡng quân và bổ sung quân số. Tiểu Ðoàn 8 tiến vào thay thế Tiểu Ðoàn 3. Sau hơn 2 tuần giao tranh với địch, Tiểu Ðoàn 8 cũng bị tổn thất rất nặng, lại phải rút ra và Tiểu Ðoàn 3, sau khi đã được bổ sung, lại tiến lên thay thế Tiểu Ðoàn 8, cố gắng nhổ các chốt còn lại của địch và mở rộng khu vực kiểm soát của Tiểu Ðoàn 3 tới sát bờ thành.
Trong thời gian của giai đoạn 1 này, các đại đội của Tiểu Ðoàn 9 thay phiên nhau tấn công, nhổ các chốt của địch tại khu vực Ngã ba Long Hưng, khu Bệnh viện, và trường Bồ Ðề, sát bờ sông Thạch Hãn, dọc theo đường Trần Hưng Ðạo dẫn vào Thị xã Quảng Trị. Tổn thất của Tiểu Ðoàn 9 cũng rất nặng với số thương vong lên đến khoảng 300. Sau đó, Tiểu Ðoàn 9 rút về khu vực Gia Ðằng để dưỡng quân và bổ sung quân số vũ khí và được Tiểu Ðoàn 1 tiến lên thay thế…
Trong suốt 2 tuần lễ của giai đoạn 2 này, các tiểu đoàn TQLC đã luôn luôn gặp sự kháng cự rất mãnh liệt của địch. Chiến thuật tác chiến trong thành phố (đã từng được các đơn vị TQLC áp dụng nhuần nhuyễn tại Huế và Sài Gòn trong Trận Tết Mậu Thân 1968) đã lại được 4 Tiểu Ðoàn TQLC 1,3,5 và 6 đem ra sử dụng một lần nữa. Họ đánh cận chiến với địch để giành lại từng khu phố, từng con đường, từng ngôi nhà. Thêm vào đó, các đơn vị pháo binh của địch đóng bên ngoài thị xã, vẫn tiếp tục pháo vào, gây khó khăn và tổn thất khá năng cho các đơn vị TQLC…
Thiếu Tá Cảnh phân công cho 2 đại đội của Tiểu Ðoàn 3 là Ðại Ðội 2 của Ðại Úy Giang Văn Nhân và Ðại Ðội 3 của Ðại Úy Nguyễn Văn Thạch nhiệm vụ nhổ chốt này. Sáng sớm ngày 15-9-1972, Ðại Ðội 3 tiến lên trước, phá vở được phòng tuyến của địch nơi cửa Hữu của Cổ Thành, các Trung Ðội của Ðại Ðội 3 lập tức tràn lên bờ thành, tỏa ra tấn công vào tất cả các cửa thành. Trung Ðội 22 chiếm cổng chính cửa Tiền đường Lê Văn Duyệt. Các chốt của địch quân kháng cự yếu ớt, rút về cố thủ ở cửa Tả đường Phan ÐÌnh Phùng, nhưng đã quá trể. Tất cả các cánh quân của cả hai Ðại Ðội 2 và 3 của Tiểu Ðoàn 3 đồng loạt xung phong, tràn vào tất cả các ngỏ ngách của khu vực này của Cổ Thành. Tiếng súng kháng cự của địch thưa dần và sau cùng tắt hẳn. Tiểu Ðoàn 3 TQLC đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Cổ Thành Ðinh Công Tráng trong phạm vi của Thị Xã Quảng Trị đã hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của các đơn vị TQLC của QLVNCH.
4) Lời kể của các Sĩ Quan Trung Đội Trưởng Mũ Xanh: Trung Úy Văn Tấn Thạch, Thiếu Úy Phùng Kim Đơ:
Khoảng 10 giờ sáng ngày 14 tháng 9 năm 1972, Đại Đội 3, Tiểu Đoàn 3 xuất quân, nhưng bị VC từ trên bờ thành cao hơn 9 mét bắn xuống, nên phải núp lại sau các đống gạch vụn, các căn nhà đổ, không tiến lên được. Trở ngại chính là giao thông hào ngập nước, rộng 4 mét, nhưng sâu tới 8 mét, không thể lội qua được, nhưng nguy hiểm nhất là Cộng Sản VN lợi dụng các pháo đài kiên cố trên Cổ Thành, đặt súng trung liên, thượng liên và “lính bắn sẻ”, hễ lính mình ló đầu ra là chết ngay. Nhiều đơn vị xuất phát trước Đại Đội 3 đã biến mất, hoặc bị giết hay bị bắt sống. Có Trung đội xung phong lên rồi im lặng, gọi mãi không thấy trả lời, nghĩa là đã chết hết cả mấy chục người. Nhiệm vụ chiếm lại Cổ Thành tưởng như đã đến hồi tuyệt vọng. Nhưng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Thủy Quân Lục Chiến, Tiểu Đoàn 3 đã ra lệnh cho 3 Trung đội của Trung Úy Văn Tấn Thạch, Thiếu Úy Phùng Kim Đơ và Thiếu Úy Vũ Duy Hiền, tiếp tục tiến lên.

Đúng 5 giờ 15 phút sáng ngày 15 tháng 9 năm 1972, 3 trung đội dò dẫm bò lên và gọi pháo binh bắn dọn đường. Mới đầu, nhiều quả pháo rơi xa quá, không tác dụng. Trung Úy Thạch gọi điều chỉnh cho gần lại, nhưng khi pháo binh điều chỉnh lại cự ly gần hơn, thì một quả pháo lại rớt ngay sau lưng trung đội của Trung úy Thạch, may mà chỉ có một anh lính bị thương. Trung Úy Thạch phải gào lên trong máy cho pháo binh điều chỉnh tới phía trước gấp, kẻo chết hết lính. Lúc đó, có lẽ là anh linh của hàng ngàn tử sĩ đã tiếp tay, một quả pháo lại rơi trúng tường thành trước mặt làm sập một khúc tường. Những tên lính Cộng Sản núp trong hầm bên kia tường, thấy tường đổ, lộ ra một khoảng trống quá lớn, thì hoảng hồn rút vào hầm chữ A. Một điều kỳ diệu nữa đã xẩy ra: tường gạch đổ xuống giao thông hào làm tung nước lên như thác đổ lại lấp đi một khoảng giao thông hào và làm thành một chỗ cạn có thể vượt được. Vội cướp lấy thời cơ, Trung Úy Thạch ra lệnh cho trung đội xung phong lên, vượt qua giao thông hào, nhẩy vào trong thành và tung lựu đạn vào các hầm hố của Việt Cộng. Lần lượt 2 trung đội của Thiếu Úy Đơ và Thiếu Úy Hiền, chạy sau cũng dùng chiến thuật ném lựu đạn làm Việt Cộng núp trong hầm chết vô số. Kinh hoảng, nhóm Việt Cộng còn lại phải bỏ chạy, lính Mũ Xanh Thủy Quân Lục Chiếm rượt theo bắn giết thỏa tay.

Nghe báo cáo tin thắng lợi, đích thân Tiểu Đoàn Phó cũng dẫn lính xông lên, tiến chiếm mục tiêu. Trong khi ấy, ở cánh trái, một số quân nhân Tiểu Đoàn 6 dùng súng phun lửa bắn vào tường thành cũng làm Việt Cộng bỏ chạy. Như vậy, chỉ trong vòng 1 tiếng đồng hồ, Thủy Quân Lục Chiến đã làm chủ tình hình Cổ Thành, một nhiệm vụ mà trước đó, đã có cả ngàn binh sĩ hy sinh nhưng không đạt được….

Tin vui dội về Trung Ương, đích thân Đại Tá Nguyễn Năng Bảo, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147 trực tiếp gọi cho Thạch Thảo (bí danh của Văn Tấn Thạch) chúc mừng. Ngay sau đó, Phòng Tâm Lý Chiến do Đại Úy Huỳnh Văn Phú và Thiếu Úy Nguyễn Đình Chánh dẫn lính xông vào cắm cờ. Mấy quân nhân tìm được một chỗ trũng, tìm cách cắm lá cờ lên trong khi đạn bắn sẻ của VC vẫn còn réo chung quanh, cho nên tấm hình chụp được của Đại Úy Phú cho thấy những quân nhân không đứng thẳng người được làm cho lá cờ chạm đất. Thực sự, những quaân nhân liều mạng cắm cờ trong tiếng súng của Việt Cộng cũng anh hùng không thua gì các quân nhân trực tiếp bắn nhau với Cộng Sản, bảo vệ cho đồng đội cắm cờ.

Trận chiến chiếm lại Cổ Thành có lẽ là trận đánh đẫm máu nhất trong cuộc chiến Việt Nam vì cả hai bên đều thiệt hại nặng. Theo tác giả Lâm Vĩnh Thế, Cộng Quân đã mất, vừa chết vừa bị thương là 36,000 người.
Về phía QLVNCH, chỉ riêng đối với Lữ Ðoàn 258 TQLC, từ ngày 29-3 đến ngày 16-9-1972, tổng số thương vong chính thức là 3.911 gồm 637 tử thương và 3.274 bị thương: Dĩ nhiên, các con số này không bao gồm thương vong của 2 Lữ Ðoàn 147 và 369 của Sư Ðoàn TQLC, cũng như của các đơn vị của Sư Ðoàn Dù, và các binh chủng khác của QLVNCH đã có tham gia trận đánh (Biệt Ðộng Quân, Biệt Cách Dù, Thiết Giáp, vv). Trong tác phẩm của mình, tác giả Dale Andradé (Ghi chú số 17; tr. 196), đã viết như sau: “… the South Vietnamese marines suffered more than 5,000 casualties since June, 3,658 of them during the seven-week battle to recapture the citadel. Almost one out of every four marines in the entire division was wounded or killed.” (tr. 196; xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “… Thủy Quân Lục Chiến của Nam Việt Nam đã có tổng số thương vong hơn 5.000 từ tháng 6, trong đó có 3.658 là trong thời gian trận đánh 7 tuần lễ tái chiếm cổ thành. Gần như là một phần tư binh sĩ của sư đoàn đã bị thương hoặc tử trận”).
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa quả thực là Quân đội thiện chiến và anh hùng nhất Đông Nam Á Châu.

Lính già Chu Tất Tiến. 9 tháng 9 năm 2021.
Share Người Lính Già TQLC

Monday, August 22, 2022

Nhảy Dù và Cổ Thành Đinh Công Tráng Trương Đăng Sỹ

Những bài về chiến trận oai hùng không.
Họ là những anh hùng không tên tuổi.

Kính gởi Niên Trưởng Giao Chỉ (San Jose)

Nhân đọc được bài “Trong đêm đen chợt thấy ánh mặt trời” của Niên trưởng, tôi đã quyết định cầm lại cây bút. Nặng nề, đắn đo, suy nghĩ suốt mấy đêm liền …

Sau cùng tôi thấy mình có trách nhiệm phải nói lên một sự thật của lịch sử và nhất là vinh danh những chiến hữu, những đệ tử thâm tình đã vĩnh viễn nằm xuống bên bờ Cổ thành Đinh Công Tráng (Quảng Trị) vào mùa Hè đỏ lửa 1972.

Ngắn gọn để tự giới thiệu với Niên trưởng, tôi là 
cựu Thiếu Tá Trương Đăng Sỹxuất thân Khóa 21 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Dalat, Đại Đội trưởng Đại Đội 51 Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, được Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 trao trọn trách nhiệm tổng chỉ huy điều động lực lượng tiền phương tiến chiếm Cổ thành Quảng Trị vào năm 1972. Hiện nay, tôi đang sinh sống tại Sydney, Australia.

Với tư cách và danh dự của một Sĩ quan xuất thân từ trường Võ Bị, tôi dám quả quyết với các niên trưởng rằng tôi sẽ nói hoàn toàn sự thật sau đây vì nó có tính cách lịch sử, mà theo tôi lịch sử phải là sự thật, đó là chân lý, đừng bẻ cong ngòi bút, đừng che dấu và đừng đánh bóng cá nhân, nhất là những người không trực tiếp tham dự cuộc chiến.

Tôi được tham dự tất cả những trận đánh lừng danh trong quân sử của Việt Nam Cộng Hòa, từ năm 1966 mãi đến ngày mất nước 30/4/1975. Với tư cách là một sĩ quan thuần túy tác chiến, đi bộ, cầm bản đồ, địa bàn, tay bấm Combiné từ Campuchia qua Hạ Lào, An Lộc, Quảng Trị, có thể nói chưa bao giờ thất bại, nhưng chua cay và gay cấn nhất là Cổ thành Đinh Công Tráng (Quảng Trị). Sau đây là diễn tiến trận đánh.

Tôi đồng ý với Niên trưởng ở điểm là hôm nay làm thế nào chúng ta phải có bản đồ trận liệt Quảng Trị, cũng như phóng đồ Hành quân tái chiếm Quảng Trị. Nếu không chúng ta cũng còn lẩn quẩn trong những nét đại cương.

Nói riêng về trận tái chiếm Quảng Trị, tôi biết có rất nhiều người yêu cầu cũng như mong muốn tôi phải lên tiếng, nhất là bên ban quân sử Mũ Đỏ. Nhưng tôi vẫn im lặng, im lặng gậm nhấm tất cả những đau thương chua chát. Im lặng để tôn trọng những người viết trước – những vị này đều không trực tiếp tham dự trận đánh. Từ Phan Nhật Nam, Trương Dưỡng, Trịnh Hữu Ân, đến Kiều Mỹ Duyên trong Chinh Chiến Điêu Linh …Chỉ có một bài làm tôi để ý là bài của Đại úy Hồ Tường, Đại Đội trưởng Đại Đội 52 trong Đặc san Mũ Đỏ, nhưng rất tiếc Hồ Tường cũng bị thương sớm, hơn nữa là đàn em nên tôi hiểu rất rõ Hồ Tường đầy đủ khả năng uống rượu, quậy phá và đánh giặc hơn là khả năng viết lách. Đại úy Trương Văn Út (Út Bạch Lan) cũng trường hợp tương tự.

Tôi rất mong lá thư này đến trước khi cuốn phim tài liệu về trận đánh mà quý Niên trưởng sắp thực hiện, mục đích là vinh danh các chiến hữu đã nằm xuống bên bờ Cổ thành, vinh danh Binh chủng Nhảy Dù đã đổ quá nhiều xương máu cho một mục tiêu mà quả là cục xương khó nuốt, nhưng lại ảnh hưởng quá lớn trên trường chính trị. Ước mong quý Niên trưởng tôn trọng máu xương của các chiến hữu và máu của cả tôi đã đổ quá nhiều cho cuộc hành quân này. Tôi có tật bẩm sinh trong đời binh nghiệp là không tranh giành chiến công vì quan niệm tất cả là của chung, của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cũng như không đổ lỗi cho bất cứ một thất bại nào.

Trở lại diễn tiến cuộc hành quân, ngày N có lẽ là ngày 28/6/1972, sau hai tháng tử thủ An Lộc, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù được không vận ra phi trường Phú Bài Huế để nhập cuộc. Toàn bộ Sư Đoàn tiến theo Quốc lộ 1 qua Hải Lăng, Triệu Phong, vượt qua Đại lộ kinh hoàng tiến về hướng La vang thượng.

Qua bao nhiêu ngày tiến quân, dưới sự yểm trợ tối đa của phi pháo và đầu đội mưa pháo của địch quân, Đại Đội tôi cũng vào được Nhà Thờ La vang và tạm ngủ tại nghĩa trang một đêm để sáng hôm sau tiến chiếm mục tiêu làng Như Lệ.

Nhưng sáng hôm sau, tôi được lệnh bàn giao khu vực La vang lại cho Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù của Thiếu tá Lê Văn Mễ băng qua Quốc lộ 1 và tiến về hướng làng Trì Bưu để từ đó làm bàn đạp tiến thẳng lên Cổ thành Đinh Công Tráng.

Tôi nhớ rõ đêm hôm đó, trong tiếng pháo ầm vang của ta và địch, Trung tá Nguyễn Chí Hiếu cho họp Ban Tham mưu và các Đại đội trưởng để ban lệnh hành quân mới. Bên cạnh bản đồ và sa bàn Cổ thành Đinh Công Tráng, Trung tá Hiếu cho biết Tiểu Đoàn 5 được vinh dự nhận nhiệm vụ bằng mọi giá phải chiếm lại cho bằng được Cổ thành. Sau khi phân tích tình hình địch và bạn, phân chia nhiệm vụ, Trung tá Hiếu trịnh trọng hai tay cầm lá Quốc Kỳ trao cho tôi và ông nói:

- “Đây là tất cả vinh dự của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và của Binh chủng Nhảy Dù, tôi đặt tất cả tin tưởng vào anh. Cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, tất cả tiền quân đặt dưới quyền điều động của anh.”

Tôi đưa hai tay nhận lá Quốc Kỳ nửa hãnh diện, nửa lo âu. Nói có vong linh Trung tá Hiếu: ông đã đặt tôi vào cảnh còn hơn Thái tử Đan, tiễn Kinh Kha qua sông Dịch.

Trong phiên họp, ông còn đề nghị dùng dây để leo lên thành, đánh như lối La Mã ngày xưa. Sau đó ông trao cho tôi một cái máy hình chữ nhật khoảng 2 tấc x 4 tấc của Mỹ, ông căn dặn trong trường hợp tuyệt vọng, bấm vào nút đỏ ngay lập tức, Không lực Hoa kỳ và hải pháo từ Đệ thất hạm độ sẽ hủy diệt mục tiêu, kể cả quân bạn. Cho đến hôm nay tôi vẫn chưa hiểu đó là chiếc máy gì? Sau này, có lúc gần như tuyệt vọng tôi định đem ra xử dụng, nhưng nghĩ còn đến bao nhiêu sinh mạng dưới tay, sinh mạng của con người đó! Ngần ngại rồi lại thôi. Đêm hôm đó, không thể nào chợp mắt. Tôi chưa bao giờ từ chối bất cứ nhiệm vụ nào, nhưng linh cảm phải hy sinh rất nhiều xương máu “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”.

Nỗ lực chính đi đầu là hai đại đội 51 và 52. Sau hai ngày di chuyển ngày đêm, vượt qua một con sông nhỏ, trước mặt là cánh đồng trống, bên kia cánh đồng là làng Trì Bưu. Tôi biết trong làng địch quân bố trí chờ sẵn…lực lượng không biết bao nhiêu nhưng có cả 12 ly 8, cối 61 và 82 ly.

Đặt ống dòm nhìn mục tiêu làng Trì Bưu, tôi gọi Hồ Tường đến ra lệnh cho một trung đội thật mỏng chiếm nghĩa trang giữa cánh đồng làm bàn đạp. Điều chỉnh xong phi tuần A37 xuống đúng mục tiêu, xin thêm 20 tràng (T.O.T = Time on Target). Sau đó là mười tràng đạn khói bao trùm làng Trì Bưu. Liền sau đó, xử dụng 3 trung đội hàng ngang xung phong cộng với 2 trung đội sẵn sàng tiếp ứng. Binh sĩ vừa bắn vừa hô xung phong, đẹp hơn ciné chiến tranh.

Chịu không nổi hỏa lực khủng khiếp của phi pháo ta, địch tháo chạy bỏ lại chiến trường 6 xác chết mặc đồ kaki Nam định, chân dép râu, đầu đội nón cối.

-“Trình 501, tịch thu 1 khẩu 12 ly 8, 1 cối 82 ly và một số AK47 và B40 …”

- “Tập trung lại tại chổ, tất cả bung rộng lục soát, cẩn thận tối đa.”

- “Nhận rõ 501, 5 trên 5.”

Từ làng Trì Bưu, về hướng Tây Bắc, mục tiêu kế tiếp là Nhà Thờ Trì Bưu. Tôi và Hồ Tường song song bung đội hình từng bước tiến lên, nhường làng Trì Bưu lại cho Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn. Đoạn đường từ đây đến Nhà Thờ Trì Bưu khoảng vài trăm thước cũng không phải dễ đi

Tôi đã xử dụng tất cả hỏa lực yểm trợ: 18 khẩu 105 ly, cơ hữu Nhảy Dù, 4 khẩu 155 ly, 2 khẩu 175 ly của Quân đoàn 1…

Ngày nào cũng có ít nhất hai phi tuần oanh tạc. Ban đêm, thỉnh thoảng còn được hải pháo từ Đệ nhất hạm đội bắn yểm trợ. Nếu cần thiết, còn được 18 khẩu 105 ly của Thủy quân Lục chiến tăng cường. Ngày nào ít lắm cũng có một hay hai lần bắn “T.O.T”.

Có lúc chúng tôi phải tiến quân trong mưa bụi của pháo binh, mục đích không cho địch quân ngóc đầu khỏi hố. Tôi áp dụng chiến thuật từng bước nhảy vọt. Hồ Tường tiến tới từ 50 đến 100m thì dừng lại bố trí, 51 tiến lên qua mặt 52, rồi lại tiến lên 50m đến 100m dừng lại hầm hố bố trí, cứ thế tiến dần …

Nhưng sức kháng cự của địch quân còn quá mạnh, nhất là bên cánh phải còn khu làng nhỏ sát bờ sông Thạch Hãn, địch bắn qua quá rát. Ban đêm đôi lúc chúng tôi còn nghe cả tiếng chiến xa địch.

Tôi quyết định xin thêm quân tăng viện và Đại đội 2 trinh sát của Đại úy Trương Văn Út (Út Bạch Lan) nhập trận. Tôi tung Út Bạch Lan qua bảo vệ sườn phải cùng song song tiến về hướng Cổ thành. Út Bạch Lan xông xáo, lanh lợi, gan lì ầm vang trong máy, nhất quyết dứt điểm mục tiêu.

Sau 7, 8 ngày quần thảo với địch quân, di chuyển ngày không được chúng tôi tiến ban đêm… và một sự tình cờ ngẫu nhiên, một tiểu đội đi lạc vào Nhà Thờ Trì Bưu. Nghe báo cáo, tôi bèn ra lệnh chiếm giữ và tung thêm quân vào lục soát, một cảnh tượng hải hùng thương tâm hiện ra trước mắt – dân chúng kẹt dưới hầm của Nhà Thờ hơn 100 người……già trẻ, bé lớn vừa đói khát vừa thương tật…….. Hầm trú ẩn nhà Thờ dày và kiên cố. Gặp chúng tôi, họ mừng vui ra mặt, một giọng Huế thân thương vang lên:

- “Mình được lính “con Ó” cứu rồi các ôn ơi !”

Tôi ra lệnh cho y tá săn sóc thuốc men và phát thức ăn tạm cho đồng bào, chỉ hướng cho họ đi về phía sau, gọi máy báo cáo cho TĐ tiếp nhận và xin thêm quân lên giữ nhà Thờ vì sợ địch cắt đứt đường tiếp tế tải thương. Đại đội 54 của Trung úy Nguyễn Đình Dương lên chiếm giữ. Dương sau này được lệnh thuyên chuyển về Phủ Phó Tổng thống. Ban Chỉ huy còn tăng cường thêm 1 đại đội của TĐ11 Nhảy Dù (Song kiếm trấn ải). Đại đội trưởng là Trung úy Đinh Viết Trinh. Lúc mới ra trường, Trinh về TĐ5 và làm trung đội trưởng cho tôi. Nghe tiếng Trinh trong máy, tôi thấy Trinh tiến bộ, gan lì, xông xáo hơn trước nhiều. Trinh tiến lên bên cánh trái chiếm nghĩa trang, từng ngôi mộ…..tiến về hướng Cổ thành. Bên trái là TĐ6 Nhảy Dù đang chiếm giữ căn cứ Compound của Mỹ để lại. Nhà ga Quảng Trị đã có Mê linh Thiếu Tá Lê Văn Mễ TĐ11 trấn giữ.

Có lần Hồ Tường đề nghị, nếu trường hợp bị địch dùng chiến xa và biển người cắt đứt đường tiếp viện giữa tiền quân và Bộ Chỉ Huy, chúng tôi sẽ có kế hoạch âm thầm di chuyển ban đêm về hướng TĐ6 Nhảy Dù. Dĩ nhiên tôi không chấp thuận lý do “Lá Quốc Kỳ chưa được tung bay trên Cổ thành”.

Hằng giờ, hằng ngày và hằng đêm, Thiếu Tá Lê Hữu Chí B3 và 101(Trung tá Nguyễn Chí Hiếu) gọi máy hỏi thăm và hối thúc liên tục. Tôi như ngồi trên đống lửa, thuốc lá và café đen liên tục…

Sức kháng cự của địch quân quá mạnh, thiệt hại nặng nhất cho tiền quân là đại pháo 130 ly từ dãy Trường sơn pháo xuống. Bên kia sông Thạch Hãn hỏa lực của địch bắn qua quá rát. Đại đội 2 trinh sát của Út Bạch Lan phải xử dụng sở trường dùng các toán trinh sát nhỏ chiếm từng ngôi nhà, lũy tre để tiến lên ngày và đêm…

Tôi và Hồ Tường cho tiền quân nhổ chốt bằng lựu đạn, đánh cận chiến và liên tục xử dụng phi pháo tối đa. Cho dù phải sinh Bắc tử Nam, những tên lính điên cuồng Cộng sản tuyệt đối không thể nào làm khác hơn vì chân đã bị xiềng chặt vào các ổ phòng không, đại liên hoặc súng cối. Mỗi đêm trôi qua đều hãi hùng, nặng mùi tử khí. Ban ngày khói lửa ngập trời. Cứ thế chúng tôi từ từ tiến bước….khoảng cách từ đây đến Cổ thành từ từ rút ngắn….

Sự thiệt hại càng ngày càng nhiều, những cán bộ nòng cốt lần lượt bị thương hoặc tử thương phải rời trận địa. Bao nhiêu tiền sát viên đưa lên đều lần lượt bị thương và tử thương, vì họ quá hăng lên ngay tuyến đầu để quan sát điều chỉnh, có đôi lúc tôi phải kiêm luôn tiền sát viên, nhưng muốn được yểm trợ phải xưng danh hiệu, các pháo đội trưởng Dù đều quen biết nên không trở ngại nhiều.

Vào một đêm tối trời, bên ngoài trời mưa lất phất, Út Bạch Lan gọi tôi qua tần số đặc biệt để báo cáo cho biết các toán trinh sát gần như tê liệt, đệ tử ruột thịt bị loại khỏi vòng chiến quá nhiều, thiệt hại đáng kể. Trong lúc tình hình địch mạnh lắm, đại pháo 130 ly, hỏa tiển 122 ly, phòng không 37 ly, hỏa tiển SA7, đại liên 12 ly 8, cối đủ loại tạo thành một bức tường hỏa lực dày đặc rất khó tiến quân. Bên kia sông Thạch Hãn, địch điều quân như chỗ không người. Út Bạch Lan lưu ý tôi nên thận trọng, báo cáo tình hình, xin thêm tăng viện. Nếu sườn bên phải bỏ trống, sẽ là một trở ngại và là nỗi lo âu to lớn cho tôi.

Sáng hôm sau, tôi gọi máy đề nghị với 101 cho Đại đội 2 trinh sát lùi về sau giữ điểm tiếp tế tải thương và xin thêm quân tăng viện. Trong cùng một ngày, 2 Đại đội của Liên đoàn 81 Biệt kích dù được phái lên tăng cường và nhập trận. Có lẽ Bộ Chỉ Huy hành quân quan niệm Biệt kích chuyên đánh từng toán nhỏ, sở trường chiến đấu trong thành phố và mới nổi danh ở chiến trường An Lộc. Nhưng thật sự với tôi có một trở ngại lớn trong vấn đề phối hợp và điều động chỉ huy. Vì hỏa lực của địch quá mạnh, nên 2 Đại đội 81 Biệt kích dù tiến hơi cẩn thận đôi lúc bị cầm chân tại chỗ.

Trong lúc Út Bạch Lan điều động Đại đội 2 Trinh sát lùi về sau thì bị chốt của địch khai hỏa dữ dội ngăn chặn, địch đã cắt đứt đường tiếp tế tải thương. Tôi nói với Út với bất cứ giá nào cũng nhổ cho bằng được các ổ kháng cự này. Tôi xin phi tuần Skyraider mang bom xăng đặc Napale và quyết định đánh sát cận rất nguy hiểm. Hai đầu là quân bạn, địch cắt ở giữa, phải làm thế nào đây ?

Tôi hỏi Út dám chấp nhận hy sinh không ? Út gật đầu, và chúng tôi quyết định xử dụng bom Napale. Sau khi L19 bắn khói điều chỉnh, chiếc khu trục thứ nhất lao xuống thả 2 quả bom xăng đặc. Cả một vùng biển lửa bốc cháy…sức nóng tàn khốc tỏa rất gần quân bạn, tôi nghe một vài binh sĩ la lên:

- “Check fire đi 501, nguy hiểm lắm !”

Tôi lạnh lùng bấm máy gọi L19:

- “Good, tiếp tục !”

Chiếc thứ hai lao xuống, 2 quả bom nữa rời cánh phi cơ, cụm lửa cao lan rộng hơn tiêu hủy cả một vùng rộng lớn…

Tôi gọi Út:

- “Vịt con (VC) bị nướng sống hết rồi, vào lượm súng đi Út Bạch Lan !”

- “Nhận rõ 501, tôi sẽ làm cỏ sạch bọn chúng.”

Út Bạch Lan cho xung phong và thanh toán gọn các ổ kháng cự. Từ đó, con đường tiếp vận tải thương mới được khai thông.

Trở lại với tiền quân, tôi và Hồ Tường mở bản đồ, tìm kế hoạch tiếp tục tiến quân. Con đường từ đây đến Cổ thành còn hơn 300m mà sao dài ra thăm thẳm….và lắm gian nguy. Tất cả phi pháo đa phần đều dồn hết vào Cổ thành, nhưng tôi lại không muốn như thế, tôi lại muốn dồn hỏa lực lên phía Bắc sông Thạch Hãn đến phi trường Ái Tử ra tận Đông Hà – phía Tây dãy Trường sơn, phải làm sao khóa họng các khẩu đại pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly của địch.

Cần nói rõ trong thời điểm này, không lực Mỹ và B52 không đồng ý oanh tạc trong thành phố Quảng Trị. Quảng Trị chìm trong biển lửa, điêu tàn và thảm khốc. Gần một tháng trời quần thảo với địch quân với hơn 2 Sư đoàn chính quy Bắc Việt: Sư đoàn 304 và 324 (?) Sự thiệt hại của đôi bên đã lên đến con số khá cao, nếu được tính chính xác.

Vào một đêm đang ngồi trong hầm, bấm đèn pin xem bản đồ, suy nghĩ phương thức tiến quân thì hiệu thính viên đưa máy cho tôi và nói 101 muốn gặp:

- “101, đây 501 tôi nghe !”

- “Báo cho anh biết, đích thân Tông tông ra lệnh cho Quân Đoàn 1 và Đại bàng 1 (Trung tướng Ngô Quang Trưởng) ra lệnh cho chúng ta phải thanh toán mục tiêu Cổ thành bằng mọi giá, càng sớm càng tốt, nhận rõ trả lời.”

- “Nhận rõ 101, tôi sẽ cố gắng !”

Thẫn thờ buông máy, suy nghĩ mông lung…

Những Sĩ quan chủ lực của tôi lần lượt bị thương rời vùng, từ Trung úy Nguyễn Tiến Việt, Thiếu úy Nguyễn Văn Hội, Chuẩn úy Sanh…đều bị thương. Bất đắc dĩ phải cho hạ sĩ quan cao cấp lên làm Trung đội trưởng, có người không biết đọc bản đồ, nhưng tác chiến rất lì lợm và kinh nghiệm.

Vì sức kháng cự của địch quân còn quá mạnh, đại quân bị khựng lại. Tôi quyết định cho thành lập toán cảm tử, lợi dụng đêm tối tiến lên chiếm thành, hầm hố vững chắc, cố gắng cầm cự để tờ mờ sáng hôm sau, tôi dẫn đại quân lên chi viện và dứt điểm mục tiêu Cổ thành. Toán cảm tử này hoàn toàn tình nguyện. Đó là kế hoạch nhưng sự thi hành hơi khác.

Số tình nguyện lên khá cao, đã hơn 10 binh sĩ. Nhiều quá dễ bị lộ! Tôi quyết định chọn ra 8 người. Hạ sĩ nhất Trần Tâm làm trưởng toán, Hồ Khang sinh trưởng lớn lên đi học tại Quảng Trị nên làm tiền sát dẫn đường, Hậu mang máy, Hồ Con, Lê Văn Lịch… Tôi không nhớ hết tên 8 người.

Vào một đêm tối trời, tôi tập hợp tiểu đội tình nguyện này vào một căn hầm của dân để lại, căn dặn cẩn thận và nói rõ mục đích chuyến đi nguy hiểm này. Chúng tôi chia xẻ với nhau từng điếu thuốc quân tiếp vụ, sau cùng tôi lên tiếng:

- “Các anh nên suy nghĩ kỹ lại đi. Không một ai có thể bắt buộc các anh, đây là vinh dự của Tổ quốc và Quân đội dành cho các anh. Tôi chỉ hứa nếu nhiệm vụ hoàn thành, tôi sẽ ký cho các anh 15 ngày phép về Saigon.”

Hậu mếu máo nói với tôi:

- “Chúng tôi không dám nghĩ đến những vấn đề quá cao xa, chúng tôi tình nguyện ra đi vì quá thương Đích thân, mấy ngày qua Đích thân không ăn một miếng cơm, chỉ uống nước, café và thuốc lá.”

Tôi vỗ vai từng người và hứa:

- “Tôi thề sẽ không bao giờ bỏ các anh đâu, yên chí, sáng hôm sau sẽ có tôi bên cạnh.”

Hồ Khang xin mang theo lá Quốc Kỳ, Hậu mang máy PRC25.

Đêm hôm đó, toán Quyết tử âm thầm lao mình vào đêm đen. Tôi thức theo dõi từng bước đi, thỉnh thoảng cho pháo binh bắn yểm trợ, soi sáng và chỉ hướng. Tiểu đội này đôi lúc phải lẩn lách tránh các ổ kháng cự của địch. Nửa đêm hôm đó, toán Quyết tử báo cáo đã thấy được Cổ thành và đang tìm cách lội qua hào sâu, sát bờ thành:

- “Nước sâu quá Đích thân.”

Hậu thều thào trong máy. Tôi gọi pháo binh bắn yểm trợ tối đa vào Cổ thành và xung quanh. Ra lệnh tiền quân sẵn sàng xuất phát.

"Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu."
"Đi lên đi lên, trên hoang tàn ta xây dựng đời mới".

Tờ mờ sáng hôm sau, trong khi vạn vật chưa tỉnh ngủ, bỗng nhiên tôi nghe tiếng la lớn:

“Việt Nam Cộng Hòa muôn năm, Nhảy Dù muôn năm!”

Tôi nghe hiệu thính viên đứt khoảng trong máy:

- “Quốc Kỳ đã được dựng lên !”

Liền sau đó tiếng nổ ầm vang tứ phía. Đại liên 12 ly 8, AK47, B40…….bắn xối xả vào một mục tiêu duy nhất – lá Quốc Kỳ!

Sau đó mất liên lạc, tôi nhanh chóng ra lệnh xuất phát và gọi pháo binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu bạn và xin thêm đạn khói bao phủ Cổ thành. Pháo binh địch cũng bắt đầu lên tiếng trả đũa.

- “Mưa rơi nặng hột (pháo địch mạnh lắm)”

Nhưng cho dù mưa rơi dữ dội cách mấy, cho dù bão tố tôi cũng phải đi. Tôi phải cứu các đệ tử của tôi. Tôi hối thúc Hồ Tường:

- “Sắp tới rồi, còn không đầy 100m nữa thôi, nhanh lên 502!”

Tôi và Hồ Tường song song tiến thẳng lên Cổ Thành, bỏ 2 Đại độ 81 Biệt kích bên cánh phải đằng sau, thế là sườn phải bị bỏ trống. Một vài binh sĩ bị thương vì pháo kích, tôi không màng để ý, cứ tiến thẳng lên Cổ Thành và xin thêm lá Quốc Kỳ thứ hai.

Sáng hôm đó khi mặt trời ló dạng, chúng tôi đã nhìn thấy Cổ Thành trước mặt. Nhưng lại có một chướng ngại vật quá lớn, đó là thành quá dày và cao. Thành dày khoảng 5m, cao 5m và được bao bọc bằng hào sâu tới cổ, rộng gần 10m.

Không thể xử dụng được hàng ngang, tiền quân bị khựng lại, đào hầm hố bố trí và tìm phương thức tấn công. Trên mặt thành, địch phòng thủ vững chắc trong các lô cốt, bắn xối xả vào quân ta.

Hồ Tường cứ di chuyển ẩn núp sau các dãy nhà sụp đổ, chạy tới chạy lui và dùng súng bắn tỉa Việt cộng trên thành. Mỗi lần nhắm trúng một tên là hắn la lên vui mừng. Với tôi, trước tiên phải làm sao phá vỡ được thành mới tính tới chuyện xung phong. Nếu cho quân lội qua hào, rồi dùng dây leo lên thành, chắc chắn chỉ làm bia cho địch tác xạ. Cho xử dụng 57 ly không giật, kể cả 90 ly vẫn không thể phá nổi thành. Bên sườn phải, địch quân vượt sông Thạch Hãn chi viện, bám đầu cầu và khai hỏa dữ dội bên phải. Trong tình thế chẳng đặng đừng, tôi điều động thêm một trung đội của Đại đội 54 do Chuẩn úy Thạch Hớn chỉ huy tấn công và giữ sườn bên phải.

Nhưng một trung đội làm sao chống nổi biển người !

Đêm hôm đó đành bám trụ cố thủ, cho thám sát mặt nước cũng như kéo xác toán cảm tử còn kẹt trong thành. Quả thật là một đêm kinh hoàng, tôi không thể nào chợp mắt, cafe hết, thuốc lá chẳng còn…Xác đệ tử cách mình chỉ vài chục thước chưa kéo về được, bức tường thành kiên cố và hào sâu đầy chướng ngại, làm cách nào thanh toán đây ?

Khuya hôm đó, một binh sĩ toán cảm tử chạy về được báo cáo tôi biết: Hồ Khang, Trần Tâm, Hồ Con, Hậu đã tử thương trên thành, số còn lại đều thất lạc !

Sáng hôm sau, tôi cho xử dụng hỏa tiển M72, 4 khẩu châu vào và bắn cùng một lúc với hy vọng phá nổi tường thành, nhưng bờ thành chỉ xây xuyển đôi chút rồi vẫn sừng sững giữa trời…

Ngày N+26, một ngày định mệnh đã xảy đến !

Tôi quyết định xử dụng bom cực mạnh để phá thành. Sau khi ra lệnh cho binh sĩ hầm hố cho thật kiên cố, tôi cho gọi Hồ Tường đến chung một hố sơ sài của dân để lại. Một sai lầm lớn, không thể đặt hai bộ chỉ huy Đại đội chung cùng một hố. Ít nhất 4 cần antene và một số binh sĩ lố nhố sẽ là mục tiêu tốt cho địch pháo kích, nhưng để dễ chỉ huy điều động, tôi chấp nhận mọi hậu quả.

Sau khi nghe tôi trình bày kế hoạch, Hồ Tường có vẻ lưỡng lự nhưng không dám cãi. Tôi quyết định đánh bom theo trục Tây Bắc xuống Đông Nam, nghĩa là đối diện với tiền quân.

Một chiến thuật hoàn toàn sai nguyên tắc, rất nguy hiểm cho quân bạn. Mục đích của tôi là muốn lấy gạch đất của thành để lấp hào sâu, làm bàn đạp xung phong vào thành. Chiếc khu trục đầu tiên nhào xuống, 2 quả bom rời cánh phi cơ, tất cả đều cúi sát mặt đất, nón sắt che đầu. Rồi chiếc thứ hai lao xuống, thêm 2 quả nữa nổ long trời lở đất, cát bụi tung phủ cả bầu trời…

Khi ngẩng đầu lên nhìn trong đám bụi mờ, tôi thấy cả một niềm vui, tôi vỗ vai Hồ Tường:

- “Thành đã bị vỡ, chuẩn bị xung phong !”

Sau khi gọi pháo binh, đầu nổ chụp lẫn chạm nổ, sau đó là 20 tràng đạn khói phủ ngập mục tiêu. Tôi ra lệnh 2 trung đội đầu bỏ balô tại chỗ, một người cầm lựu đạn, một người cấm súng vượt nhanh qua hào sâu, bám chặt vào góc Cổ Thành đã bị vỡ. Nhờ đất đổ xuống lấp mặt nước hơi cạn, lợi dụng màn khói bao phủ, nên tiền quân vượt qua tương đối dễ dàng. Khi màn khói vừa tan, địch quân bắt đầu trả đũa dữ dội. Nặng nhất là hai lô cốt ở mặt tiền và giữa sân cột cờ Tiểu khu, địch còn ngoan cố trong hầm hố bắn trả rất mạnh. Tôi tung thêm vào thành một trung đội, bung rộng đội hình vừa đào hầm hố, vừa chống cự.

Phi cơ quan sát L19 bao vùng báo tôi biết địch từ phía Bắc sông Thạch Hãn tràn qua như kiến! Tôi một mặt xin pháo binh yểm trợ, một mặt xin tiếp phi tuần oanh kích.

Trong giờ phút dầu sôi lửa bỏng như thế, thình lình một tai họa xảy đến. Một quả đạn cối 82 ly nổ ngay hầm chỉ huy. Nói là “hầm” chứ thật ra chỉ là một ụ ẩn nấp sơ sài, trước mặt đường là hào sâu vì tôi muốn dễ quan sát tiền quân. Hồ Tường máu me đầy người, 3 hiệu thính viên: một chết, hai bị thương nặng. Riêng tôi cảm thấy cánh tay trái trĩu nặng, máu đào đã thấm ướt chinh y. Tôi cho gọi Thượng sĩ Trực lên tải thương và y tá băng bó tạm vết thương. Còn một tay vẫn còn xử dụng được Combiné. Lúc đó tôi đã là người say máu.

Gọi máy báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn để nhận được lời khiển trách của 101:

- “Căn dặn anh nhiều lần, đừng chụm hai bộ chỉ huy lại một chỗ, không nghe!”

Thiếu tá Lê Hữu Chí B3 vẫn còn đùa cợt trong máy:

- “Xử dụng Độc Cô cửu kiếm đi Lệnh Hồ đại ca !”

Đôi lúc danh hiệu truyền tin của tôi là “Lệnh Hồ Xung”, với tình trạng này dù có 10 thành Cửu dương thần công, hay độc cô cửu kiếm cũng đành bó tay !

Tôi cho củng cố, phối trí lại lực lượng. Hai Đại đội 51 và 52 nhập lại thành một. Bung 51 và Đinh Viết Trinh lên bên trái. Bên phải sát bờ sông Thạch Hãn, hối thúc 2 Đại đội 81 Biệt kích tiến lên giữ cạnh sườn. Nhưng vì sức kháng cự của địch quá mạnh nên cánh quân này bị dậm chân tại chỗ.

Đã kéo về được 3 xác của toán Quyết tử: Hồ Khang bị chặt làm 3 khúc nhận ra được vì anh đeo thẻ bài dưới chân, Hồ Con gục ngã, Lê Văn Lịch bị bắn ngay giữa đầu…số còn lại bị thất lạc.

Ra lệnh cho các trung đội trong thành củng cố hầm hố, tôi quyết định cho dựng Quốc Kỳ lên lần thứ hai. Cờ vàng ba sọc đỏ là mối thù không đội trời chung của Cộng sản, cho nên vừa thấy lá Cờ tung bay là chúng khai hỏa dữ dội, nặng nhất còn ở giữa cột cờ Tiểu khu Quảng Trị. Hai khẩu 12 ly 8 ở lô cốt mặt tiền hạ nòng bắn xối xả, B40, B41, AK47 châu thẳng vào cột cờ.

Quân ta cũng chống trả quyết liệt với quyết tâm giữ vững ngọn cờ!

Tôi gọi L19 lên bao vùng và quyết định dùng bom đánh thẳng vào cột cờ Tiểu khu. Danh hiệu của L19 bấy giờ là Phi Long (nếu tôi nhớ không lầm).

- Phi Long, Phi Long đây! 501 gọi, nghe rõ trả lời!

- Phi Long tôi nghe.

- Anh có nhìn thấy lá Quốc Kỳ ở góc Đông Nam Cổ Thành không?

- OK, đã nhìn thấy rõ !

- Tôi đang ở đó. Anh cho đánh từ lá Cờ về hướng Tây Bắc từ 100 đến 150m, nhận rõ trả lời.

- Nhận rõ 5/5.

- Lưu ý anh là phòng không địch rất mạnh. Hỏa tiển SA7 và 37 ly đang chào đón các anh.

Lưu ý dùm fighter đánh trên đầu khói, vì khói đang bay dạt về hướng tôi.

- Đã nhận rõ, tôi sẽ gọi phi tuần đến ngay !

Khoảng 10 phút sau, 2 chiếc A37 bán phản lực vào vùng, bay lượn xung quanh và chờ L19 chỉ điểm. L19 bay quá cao để tránh phòng không nên khi lao xuống bắn khói chỉ điểm không được chính xác, hơn nữa cụm khói đang từ từ theo chiều gió bay đến chúng tôi…

Tôi vừa bấm máy gọi Phi Long thì chiếc A37 đầu tiên đã lao xuống, 2 quả bom rơi xuống ngay trung đội đầu.

Tôi thất thanh la lớn: “Check fire ngay lập tức !”

Nhưng sát theo sau là chiếc thứ hai lao xuống, 2 quả nữa chấn động cả vùng. Tôi ra lệnh tung khói màu và gọi “check fire”.

Đã trễ rồi ! “Phi cơ đã đánh lầm chúng tôi rồi !”

Tôi cảm thấy lồng ngực ê ẩm, tay chân nặng trĩu. Cả một bầu trời sụp đổ thê lương. Hơn phân nửa của 3 trung đội đầu gần như tê liệt. Nhìn binh sĩ lần lượt tải thương, dìu nhau trở lại mà lòng tôi tê cứng. Tại sao? Định mệnh nghiệt ngã hay số trời?

Tôi rút máy hình chữ nhật ra định tiêu hủy mục tiêu, lưỡng lự…lại thôi ! Rút colt 45 ra định kết liễu đời mình để đi theo chiến hữu, nhưng đệ tử xung quanh ngăn cản.

Sau khi báo cáo về Bộ Chỉ Huy, tôi kiểm soát lại binh sĩ, tạm bố trí chờ lệnh. Chiều hôm đó, Trung Tá Hiếu cho Thiếu Tá Bùi Quyền lên thay và cho tôi về dưỡng thương. Nhưng tôi biết rõ, nếu tôi về đêm nay và nếu lỡ bị địch tấn công coi như tan rã. Tôi cần ở lại và quyết định từ chối tải thương.

Thiếu tá Bùi Quyền cho biết lệnh ngày mai bàn giao Cổ Thành lại cho Thủy Quân Lục Chiến để nhận nhiệm vụ khác. Tôi không cần thắc mắc, vì thật ra tôi chỉ còn là một cái xác không hồn, đau thương, uất nghẹn…

Chỉ vì Cổ Thành Quảng trị, chỉ vì lá Quốc Kỳ, mà biết bao nhiêu chiến binh Mũ Đỏ đã bị thương và nằm xuống nhẹ nhàng và hãnh diện.

Sáng hôm sau, 27/7/1972, bàn giao vùng trách nhiệm lại cho TQLC trong màn khói bao phủ để tránh địch quân quan sát, pháo kích và tấn công. Địa điểm đầu tiên cách bờ thành chưa đầy 100m, nằm trong tầm đạn của quân thù.

Sau ngày 27/7/1972, chiến thuật và sự điều binh của TQLC tôi hoàn toàn không rõ.

Thay lời kết :

Tôi muốn nói : “Nhảy Dù” đã đánh và đã vào Cổ Thành Quảng Trị như thế đó. Vào bằng tất cả hỏa lực và máu xương. Vào bằng tất cả quyết tâm của tuổi trẻ hiến dâng cho Tổ Quốc, cho dân tộc. Quyết tâm dựng lại cho bằng được lá Quốc Kỳ.

Nhưng than ôi: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Bây giờ, đã 37 năm trôi qua, trong lúc TQLC chuẩn bị làm Lễ Chiến thắng Cổ thành Quảng Trị thì cũng có một người đang âm thầm làm giỗ tưởng niệm các đệ tử thân thương của mình, cho dù đơn giản với một vài nén hương, một vài đóa hoa hay đôi dòng thương nhớ để nói lên sự hy sinh, lòng dũng cảm và hào hùng của những “thiên thần Mũ Đõ” trong trận chiến Cổ Thành.

Hồ Khang, Hồ Con, Trần Tâm…quê hương tôi nghèo, tên tôi không chữ lót, nhưng họ mới thật sự là những anh hùng.

Một Đỗ Từ Long, đầu không bao giờ mọc tóc vì ba gai thành phố, nhưng đánh giặc thì lì lợm mấy ai bằng. Chạy lên chạy xuống xin lựu đạn để gục ngã trên hố quân thù. Ngày nào nó cũng nghêu ngao:

“Tóc em dài em cài hoa Thiên lý,
Tóc anh dài, Thượng sĩ cạo đầu anh…”

Còn nhiều và rất nhiều nữa, Thượng sĩ già Nguyễn Văn Trực, Hậu, Lịch, Tống, Kình….tất cả đã cùng tôi dầm sương dãi nắng, qua bao nhiêu hiểm nguy binh lửa, mà phút chốc đã bỏ tôi nằm đây bất động…

Còn 52, còn Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, Đại đội 2 Trinh sát, Biệt kích 81 Dù, bao nhiêu người nằm xuống ?!

Lịch sử có ghi, xin hãy ghi dùm, HỌ mới đích thực là anh hùng. Chưa bao giờ họ được hưởng bổng lộc, chưa bao giờ được thấy vinh quang dù chỉ trong chớp mắt nhìn được Cờ vàng 3 sọc đỏ tung bay trên Cổ Thành Quảng trị, cho dù một phút giây, cho dù giữ không nổi, nhưng họ đã cho đó là sứ mệnh thiêng liêng của người lính VNCH, của chiến binh Mũ Đỏ.

Hãy chờ tôi các em nhé ! Cho dù sớm hay muộn, cho dù con đường có ngắn hay dài, tôi cũng sẽ gặp lại các em ở một nơi xa xăm nào đó, để cùng nhau nâng chén rượu đoàn viên :

“Xin cho tôi một mộ phần,
Bên ngàn chiến hữu của tôi.”


Trương Đăng Sỹ

Wednesday, November 17, 2021

E-mail của cư dân Garden Grove Bob Harison ra lệnh cho Liên Hội Cựu Chiến Sĩ (Hội Đồng Đế, Hội Nhảy Dù và Hội TQLC) đánh phá Tượng Đài Tái Chiếm Cổ Thành Quảng Trị

Tại buổi họp HDTP vừa qua, Ông Bob Harrison, một ủng hộ viên và là nhân vật hoạt động thân cận với nhóm cộng đồng Việt Nam của ông Phát Bùi đã gởi thư đến Hội Đồng Thành Phố Westminster yêu cầu hủy bỏ giấy phép xây dựng tượng đài. Lá thư này đã đươc trao đổi, thảo luận và phối hợp với nhóm Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Nam California, một số cựu quân nhân tại Quận Cam và cả ông Phát Bùi để thảo luận một âm mưu hủy bỏ dự án xây dựng tượng đài CTQT. Xin xem email kèm theo đây để hiểu rõ hơn về mức độ hợp tác và phối hợp của các thành phần chống đối này từ hồi đầu năm nay.

Cũng trong cùng ngày, nhóm Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Nam Calif cũng phổ biến một Bản Lên Tiếng (BLT) trong đó có nhiều lập luận và lý do rất là vu vơ nhằm mục đích chống lại dự án xây dựng tượng đài. Bản Lên Tiếng này được ông Bob Harrison cho là quá yếu kém so với thỏa thuận họ đã thảo luận với nhau trước đó. 

TỔNG LƯỢC VỀ TRẬN ĐÁNH TÁI CHIẾM CỔ THÀNH QUẢNG TRỊ Chu Tất Tiến.

Tháng 12, năm 2020, một nhóm người trẻ thuộc thế hệ thứ 2 đã xin được sự đồng thuận 5/5 của thành phố Westminster cho phép xây dựng Tượng Đà...