Tờ mờ sáng chúa nhật 26-6-1950, bảy sư đoàn bộ binh Bắc Hàn, với
quân số tổng cộng hơn 90.000 người, được yểm trợ bởi một lữ đoàn
thiết giáp, gồm 150 chiến xa T-34 của Nga Sô và lực lượng không quân
hùng mạnh với 135 chiếc oanh tạc cơ cùng chiến đấu cơ. Tất cả ngang
ngược vượt đường ranh ngăn đôi tạm thời hai nước Triều Tiên, tại vỹ
tuyến 38 để tấn công Nam Hàn.
Hai mươi hai năm sau đó, vào giữa trưa ngày 30-3-1972, nhằm mùa lễ
Phục sinh của người Thiên Chúa Giáo, cũng là ngày thứ năm của tuần
Thánh Holly Thursday. Lợi dụng mọi người đang xem lễ, cầu nguyện
trong những giờ phút thiêng liêng, như dịp Tết Mậu Thân 1968. Cọng
sản Ðệ tam quốc tế Hà Nội, mở một cuộc tấn công ác liệt nhất trong
cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1955-1975) vào khắp lãnh thổ VNCH.
Chỉ riêng mặt trận giới tuyến, Hà Nội đã xử dụng một lực lượng quân
sự vô cùng hùng hậu trên 40.000 người, gồm các sư đoàn chủ lực
304, 308, năm trung đoàn biệt lập của B-5 là 126, 31, 246, 270, đặc
công, hai trung đoàn chiến xa mang số 203, 204 gần 400 chiếc và năm
trung đoàn pháo binh nặng. Tất cả đồng loạt vượt sông Bến Hải tràn
qua khu phi quân sự, pháo tập và tấn công biển người vào lãnh thổ
VNCH tại tỉnh Quảng Trị.
Hai trận chiến trên rất giống nhau và cũng khác nhau, giống vì cả
hai hiệp định ngưng chiến Cao Ly và Việt Nam, đều do Liên Hiệp Quốc
chủ xướng, được ký tại Postdam (7-1945) và Genève (20-7-1954), trong
đó có Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt ký vào văn
bản. Còn hai nạn nhân là Nam Hàn và Nam Việt, chỉ đứng chầu rìa lơ
láo bên lề hội nghị, để nuốt máu lệ và nỗi nhục nhược tiểu mà thôi.
Riêng Bắc Hàn và Bắc Việt đều là chư hầu của Nga-Tàu, trước sau và
tới bây giờ vẫn là những đảng cọng sản quốc tế còn sót lại, cuồng
tín, cuồng sát và hung hăng hiếu chiến, không thua gì Trung Cộng.
Tất cả những thảm họa chiến tranh, từ mấy chục năm qua trên bán đảo
Đông Dương và Triều Tiên, cũng đều do hai nước cọng sản này gây nên,
qua sự chỉ đạo của đàn anh Nga-Tàu cùng khối xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên cũng có sự khác biệt, đó là ngay khi Bắc Hàn hùng hổ lộng hành
tràn qua vỹ tuyến 38, thì lập tức bị Mỹ và LHQ đánh đuổi trở lại bên
kia giới tuyến. Nhưng đối với hành động xâm lăng trắng trợn của Bắc
Việt thì lại khác, chẳng những không bị các nước đồng chủ tịch, tại
hội nghị Genève 1954 phản đối, mà ngay cả tổ chức Liên Hiệp Quốc
cũng im re. Còn Mỹ thì có gì để nóí, khi Nixon và Kissiger đã quyết
định bỏ chạy khỏi VN. Bởi vậy, Hà Nội càng hung hăng tàn bạo, táng
tận lương tâm, pháo tập, trực xa, chém giết thẳng tay hàng vạn đồng
bào vô tội, bị kẹt trong vùng lửa khói giao tranh, trên khắp các nẻo
đường đất nước, mà kinh khiếp và tàn nhẫn nhất, chắc chắn không đâu
có thể sánh nổi với đoạn đường chín cây số, từ quận Hải Lăng về Mỹ
Chánh, thuộc tỉnh Quảng Trị.
Ngậm máu phun người trước dơ miệng mình, đặt chuyện chụp mũ Mỹ và
quân lực VNCH trong chiến tranh, là một sự tuyên truyền rất rẻ tiền
của Bắc Việt, chẳng những từ trước năm 1975, mà sau này các văn nô
Hà Nội, trong đó có cán gái Dương Thu Hương (tiểu thuyết Vô Ðề), đều
là chuyện bình thường và xảy ra hằng ngày như cơm bữa. Bởi vậy giờ
đâu còn ai tin những chuyện QLVNCH hãm hiếp, bắn giết tù binh VC,
hay những chuyện quân đội Hoa Kỳ bắn giết bừa bãi thường dân Việt
tại Mỹ Lai-Quảng Ngãi hay mới đây là chuyện Mỹ gài mìn trên cầu
Nogunri ở Bắc Hàn vào tháng 7-1950 , trước khi rút lui, làm thiệt
mạng thường dân trên đường chạy loạn hay có thể bị Bắc Cao xua đi
đầu dọn bãi mìn, như Bắc Việt từng làm tại An Lộc, Bình Ðịnh,
KonTum.. Nhưng dù có chạy tội cách nào chăng nữa, thì đoạn đường
xương trắng máu hồng từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, cũng đã trở nên Ðại Lộ
Kinh Hoàng, ngàn đời muôn kiếp, trong bia miệng, bia đời và những
trang sử của VN cùng nhân loại.
Hãy đọc G.H. Turley nguyên Ðại Tá cố vấn TQLC, trong tác phẩm The
Easter Offensive, thuật lại lời Thiếu Tá Mỹ tên Sheridan vốn là một
nhân chứng trong đoàn quân di tản khỏi thành phố Quảng Trị "không
ngờ tôi đã làm nhân chứng cho một hình ảnh thảm khốc, của cuộc chiến
VN. Các pháo thủ bộ đội Bắc Việt, với lý do mà tôi không thể nào
giải thích nổi, khi tập trung các loại pháo nặng, thiết giáp để trực
xạ vào đoàn người di tản. Khiến cho hàng ngàn người đã gục chết oan
khiên, trong đó phần lớn là người già yếu, đàn bà và trẻ nít ..
".Còn ký giả A.R.Isaaca thì viết "vào tháng 6-1972, tôi theo lực
lượng Nhảy Dù của VNCH trở lại tái chiếm Quảng Trị. nên được tận mắt
nhìn thấy những thảm họa của đồng bào khi chạy lánh nạn trên Ðại Lộ
Kinh Hòang kéo dài hàng chục dặm trên đoạn đường bi thiết này, toàn
là những xác xe cộ, trong đó nhiều chiếc còn nguyên tử thi của các
nạn nhân. Tất cả đã biến dạng sau hai tháng dãi dầu chịu đựng mưa
nắng. Dù quân sĩ cố gắng chôn cất cho họ, nhưng vì quá nhiều, nên
vẫn còn nhiều xác kẹt trong xe,suốt hai bên đường quốc lộ số 1".
Nhưng diễn tả đúng mức sự tàn ác dã man có một không hai của bộ đội
Bắc Việt, nhắm vào đồng bào mình, là nhà văn quân đội Phan Nhật Nam
trong tác phẩm Mùa hè đỏ lửa 1972 "sự chết trên 9 cây số đường này,
là chín cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên
đầu ngọn lá và vạn vật chết trong lòng ánh sáng, thứ ánh sáng có mùi
người.. ' ' '.Thê thảm quá, bất lương ghê cho chiến tranh không biên
giới và những người Việt Cộng do Hồ Chí Minh ương trồng, không còn
một chút tình VN và hơi hám của con người đi bằng hai chân biết nói.
1-Quảng Trị, miền địa đầu giới tuyến:
Tỉnh Quảng Trị nằm ngay địa đầu giới tuyến ngăn đôi đất nước bởi
dòng Bến Hải. Ðây là một con sông nhỏ phát nguyên từ dãy Trường Sơn,
chảy ra Ðông Hải tại cửa Tùng. Tỉnh bắc giáp quận Vĩnh Linh phía bên
kia giới tuyền, tây giáp Lào, phiá nam là tỉnh Thừa Thiên và phía
đông là biển. Trước khi xảy ra trận mùa hè năm 1972, tỉnh Quảng Trị
có diện tích 3966 km2, dân số 270.984 người. Sau khi kết thúc trận
chiến mùa hè vào tháng 9-1972, diện tích Quảng Trị chỉ còn có
164.900 km2, với ba quận Triệu Phong, Mai lĩnh và Hải Lăng nhưng dân
số tới 202.338 người. Ðiều này cho thấy, Bắc Việt gây chiến tranh,
chỉ chiếm được đất chứ không bao giờ thu phục được nhân tâm, bởi sự
tàn ác dã man của bộ đội miền bắc, đi tới tâu thì đồng bào đều phải
bỏ của để chạy lấy mạng.
Rừng núi Trường Sơn chiếm 2/3 lãnh thổ tỉnh, chạy dài từ bắc tới
nam. Tỉnh có ba con sông chính là Bến Hải, Thạch Hãn và Mỹ Chánh mà
cả ba đã vô tình qua sự sắp xếp của lịch sử, trở thành ba con sông
biên giới trong các giai đoạn chiến tranh VN . Tỉnh còn có hai quốc
lộ 1 và 9, cũng là hai chứng tích lịch sử về việc đồng bào chiến nạn
tỉnh Quảng Trị bị thảm sát.
Quảng Trị du nhập vào Mẹ VN từ năm 1069 khi vua Lý Thánh Tôn, thân
chinh đánh Chiêm Thành bắt được vua Chế Củ. Ðể chuộc mạng, vua dâng
ba châu Ðịa Lý, Ma Linh và Bố Chánh (tức Quảng Bình và một phần
Quảng Trị ngày nay). Sau đó vào năm 1306 Huyền Trân Công Chúa gả cho
vua Chế Mân, đem về cho Ðại Việt hai châu Ô và Lý. Hai châu này sau
đó được vua Trần Nhân Tông đổi thành đất Thuận-Hóa vào năm 1307. Các
quận Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lặng ngày nay là đất Hóa thời nhà
Trần. Quảng Trị cũng là đất khởi nghiệp của Họ Nguyễn, khi Chúa
Nguyễn Hòang được vào trấn thủ Thuận Hóa vào tháng 10 năm Mậu Ngọ
(1588). Ông lập dinh tại Ái Tử, quận Triệu Phong. Vì là đất cổ của
Ðại Việt, nên Quảng Trị có nhiều di tích lịch sử như đền thờ Trần
Nhật Duật, thành Tân Sở nơi vua Hàm Nghi xuất bôn xuống hịch Cần
Vương chống Pháp vào năm 1885, Vương Cung Thánh Ðường La Vang (Mai
Lĩnh), cổ thành Ðinh Công Tráng.
Thành cổ Ðinh Cộng Tráng được xây dựng từ năm 1823 thời vua Minh
Mạng nhà Nguyễn đắp bằng đất. Năm 1838 thành được xây lại bằng đá
gạch, với chu vi 481 trượng 6 thước, cao 1 trượng, dày 3 trượng.
Thành có 4 cửa, chung quanh được bao bọc bởi vòng hào, rộng 4 thước,
sâu 8 thước. Trước năm 1972, thành cổ là doanh trại của sư đoàn 101
không kỵ Hoa Kỳ. Vào năm 1972, trong cổ thành có Tiểu Khu Quảng Trị
và Bộ Tư Lệnh của Sư đoàn 3 bộ binh. Tóm lại đây là một công thự
phòng thủ quân sự kiên cố, nhất là trung tâm hành quân của tướng Vũ
Văn Giai tư lệnh SD3BB, cũng là tư lệnh chiến trường miền giới tuyến
Quảng Trị, trong trận mùa hè năm 1972.
Làm như để đáp ứng cùng với chính phủ Hoa Kỳ trong các cuộc họp mật
khi quân Mỹ lần lượt rút khỏi Nam VN, cọng sản Bắc Việt cũng đóng
kịch giảm quân và cường độ tấn công vùng giới tuyến so với những năm
về trước. Do trên, các cấp lãnh đạo VNCH, từ trung ương tới quân
đoàn I, đã tin tưởng là Hà Nội sẽ chẳng bao giờ có ý đồ tấn công qua
sông Bến Hải. Ðây chính là lý do đã giao trọng trách phòng thủ miền
giới tuyến, cho một sư đoàn bộ binh tân lập, chỉ mới hình thành được
vài tháng. Ðó là sư đoàn 3 bộ binh, thành lập cuối năm 1971 có quân
số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hữu, chỉ có Trung
Ðoàn 2 BB rất thiện chiến, vì là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư
đoàn 1 BB lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai trung đoàn 56 và 57
tân lập mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh, quân dịch
và các đơn vị DPQ + NQ Vùng 1 chiến thuật.. Sư đoàn cũng chưa có
kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng..
Quảng Trị lúc đó, được tăng phái thêm Lữ đoàn 147 TQLC của Trung Tá
Nguyễn Năng Bảo đóng tại Mai Lộc về phía tây tỉnh, với trách nhiệm
phòng thủ các căn cứ Ba Hô, Sarge, Holcomb và Phượng Hoàng. Riêng
SD3BB phòng thủ vỹ tuyến : Trung đoàn 56BB đóng trong căn cứ hỏa lực
Carroll lớn nhất tỉnh, do Trung Tá Phạm văn Ðính chỉ huy trách nhiệm
phòng thủ các căn cứ Fuller, Khe Gió tiếp cận với Lữ đoàn 147 TQLC..
Trung đoàn 2 BB đóng tại căn cứ A-4 (Cồn Thiên) và Trung đoàn 57BB
trách nhiệm căn cứ C-1 (Gio Linh), chạy tới cầu Hiền Lương trên quốc
lộ 1, về tới căn cứ Ái Tử.. Phía bên kia quốc lộ tới biển, do lực
lượng DPQ+NQ tỉnh Quảng Trị bảo vệ.
2-Trận chiến mùa hè 1972 tại Quảng Trị:
Ðúng 12 giờ trưa ngày 30-3-1972, đại tướng Võ Nguyên Giáp tổng tư
lệnh quân đội miền Bắc khai pháo mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, xua
40.000 quân vượt vỹ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tấn công
QLVNCH trong tỉnh Quảng Trị. Ðể mở đường qua sông, pháo binh cọng
sản, với các loại đại bác nòng dài 130 ly, cũng như hỏa tiễn 122 ly,
từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá tất cả các
căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có.
Ngay lúc hai Trung đoàn 2 và 56/SD3BB đang hoán chuyển vùng, nên bị
tổn thất nặng nề về nhân mạng, đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ
nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh và hoảng sợ. Sau đó bộ binh,
chiến xa Bắc Việt, từ bốn hướng tấn công đồng loạt, mục đích không
cho QLVNCH tiếp ứng lẫn nhau, khiến cho các căn cứ hỏa lực lần lượt
thất thủ, vì pháo kích và các cuộc tấn công biển người.. Tuy nhiên
quân cọng sản cũng vấp phải sự chống cự mãnh liệt khắp nơi, nhất là
tại các căn cứ của Lữ đoàn 147 TQLC và Trung đoàn 2BB. trấn giữ. Ðại
chiến long trời lở đất khắp nơi tại Quảng Trị, dù được khẩn báo về
Sài Gòn và Ðà Nẵng, nhưng lúc đó dường như cả hai cấp chỉ huy quân
sự cao nhất, vẫn còn chưa tin là Hà Nội dám vượt sông Bến Hải. Chính
điều này, đã làm cho bao nhiêu sinh mạng của đồng bào và người lính,
chịu thương vong oan khiên trên các con đường di tản, trước biển
giặc.
Mãi tới 6 giờ chiều ngày 30-3-1972, Lữ đoàn 258 TQLC và Thiết đoàn
20 chiến xa M48, được tăng cường cho SD3BB tại mặt trận Ðông Hà..
Ngay lúc đó, SD308 cọng sản đang tấn công Tiểu đoàn 4 TQLC tại hai
căn cứ Sarge và đỉnh núi Ba Hô. Còn SD304 thì tấn công Tiểu đoàn 8
TQLC tại căn cứ Holcomb. Thời tiết lại quá xấu, nên không quân không
thể yểm trợ hỏa lực cho các căn cứ trên, còn hải pháo cũng chỉ yểm
trợ tới các căn cứ hỏa lực ở phía đông gần biển mà thôi. Riêng các
Pháo đội đại bác 105,155 kể cả 175 ly của VNCH, cũng không thể đương
đầu nổi, với hàng trăm khẩu pháo nặng 130 ly của Bắc Việt.
Rồi thì căn cứ Ái Tử, nơi đặt Bộ Chỉ Huy tiền phương của SD3BB cũng
bị pháo kích nặng nề. Ðồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio
Linh, Ðông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản,
kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên
đường đào sanh, hằng ngàn người đã làm mồi cho đạn pháo binh và
thiết giáp của bộ đội miền Bắc, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của
ta, vì vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc
trong cơn nguy ngập.. Ðạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung
tàn, phá hết tất cả, không cần phân biệt xóm làng, chùa nhà thờ, dân
lính, thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông
dân như Cam Lộ, Ðông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà
không một ai, có thể ngờ tới.
Ngày 31-3 căn cứ hỏa lực của TD4 TQLC tại núi Ba Hô và Sarge bị tràn
ngập, phải di tản vào lúc 9 giờ 40 tối, sau khi hứng chịu nhiều
thương vong. Ngày 1-4 các căn cứ Ðông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo kích
nặng nề nhưng cọng sản vẫn chưa chiếm được, nhờ hải pháo của Ðệ Thất
Hạm Ðội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị bắn vào yểm trợ, trong lúc
thời tiết càng xấu thêm, nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu.
Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SD3BB trấn
giữ bị tấn chiếm, còn căn cứ Fuller và Khe Gió thì di tản chiến
thuật. Căn cứ Holcomb của TD8TQLC , bị tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya
đêm 2-4. Tình hình chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc tình cảnh
của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm , khiến cho các cấp
chỉ huy của SD3BB và Tiểu Khu Quảng Trị gần như bó tay, vì không tìm
ra kế hoạch nào, để ổn định tình thế.
Rồi BTL tiền phương của SD3BB được lệnh rút về thành phố Quảng Trị.
Lữ đoàn 258 TQLC, được tăng cường thêm TD3PB/TQLC và TD7TQLC, lãnh
thêm nhiệm vụ phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong lúc đó căn cứ hỏa lực
Carroll của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn nhưng không có quân tiếp
viện. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam
Ðông Hà, để lại cho giặc nhiều khẩu đại bác 155 ly.
6 giờ 30 sáng ngày 2-4-1972, bỗng có tin TQLC Hoa Kỳ đã đổ bộ vào bờ
biển Quảng Trị, để tiếp viện cho QLVNCH. Tin trên làm cho quân dân
trong tỉnh vô cùng phấn khởi nhưng Hà Nội biết trước là tin vịt, nên
càng tấn công mạnh khắp nơi. Cùng ngày TD3TQLC và Thiết đoàn 20
chiến xa M48, được lệnh giữ cầu Ðông Hà. Trận chiến trở nên ác liệt,
vì bộ đội và chiến xa cọng sản, chuẩn bị vượt cầu Ðông Hà. Ngày 3-4,
Trung Ðoàn 2BB bị bộ đội Bắc Việt truy đuổi khi rút về Cam Lộ, nên
không kịp dùng mìn phá cầu. Tại căn cứ Carroll do Trung Tá Phạm Văn
Ðính chỉ huy, gồm Trung đoàn 56BB, các pháo đội diện địa, TD1 Pháo
binh TQLC, tổng cộng quân số trên 2000 người, kéo cờ trắng đầu hàng
quân Bắc Việt. Ðây là trường hợp duy nhất trong cuộc chiến Ðông
Dương lần 2. Tình hình đã quá nguy ngập, nên cầu Ðông Hà được lệnh
giật xập, chận được bước tiến của giặc trong một thời gian ngắn. Lữ
đoàn 369 TQLC lại được tăng cường thêm cho Quảng Trị.
Ngày 4-4, Lữ đoàn 147 TQLC cũng phải bỏ luôn căn cứ Mai Lộc, vì
không chịu nổi pháo kích và chiến thuật tấn công biển người. Vì quân
số bị hao hụt quá nhiều, nên lữ đoàn này được lệnh về Huế bổ sung và
tái trang bị.. Riêng TD7 TQLC vì quân số còn nguyên vẹn, nên được
lệnh giữ còn đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh. Như
vậy về phía tây, chỉ còn có TD1 TQLC, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng,
làm tiền đồn bảo vệ thành phố mà thôi.
Do tình hình quá khẩn cấp và nguy ngập, nên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1
tăng cường thêm cho Quảng Trị nhiều đơn vị. Như vậy tính đến ngày
5-4, chiến trường này có 2 Trung đoàn bộ binh của SD3 là 2 và 57,
hai Lữ đoàn 258 và 369 TQLC, bốn Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân, hai Thiết
đoàn 17 (M113) và 20 (M48), 24 Tiểu đoàn Ðịa Phương Quân + NQ và 8
Tiểu đoàn Pháo binh. Nhưng vì lệnh chỉ huy không thống nhất, giữa
Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh QÐ1) từ Ðà Nẵng và Chuẩn tướng Vũ Văn
Giai (Tư lệnh SD3BB) tại chiến trường, khiến cho tình thế đã không
được ổn định, mà càng gây thêm rắc rối trên khắp các mặt trận. Cuối
cùng Quảng Trị đã thất thủ, chỉ sau mấy ngày bị pháo kích đã ban
lệnh di tản.
Ngày 8-4, sau mấy ngày bị tổn thất vì mưa pháo, TD 3 TQLC phải hoán
chuyển về Ái Tử và BDQ ra thay thế giữ bờ nam Ðông Hà. Tại căn cứ
Phượng Hoàng, cọng sản đã thảm bại khi trực chiến với TD6 TQLC,
thiệt hại hơn một trung đoàn bộ đội, 21 chiến xa T54 bị cháy, phần
lớn do Không quân Việt-Mỹ oanh kích, bãi mìn cùng pháo binh. Hai
chiếc T54 khác bị bắt sống đem về thành phố Quảng Trị. Nhưng sau đó,
TD6 TQLCH cũng được lệnh bỏ căn cứ Phượng Hoàng vào ngày 12-4. Một
cuộc hành quân đại qui mô, do Trung tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ Huy,
mang tên Quang Trung 729, khai diễn ngày 14-4 với mục đích tái chiếm
các căn cứ ở phía tây đã mất. Nhưng cùng lúc, cọng sản Bắc Việt đã
mở ba cuộc tấn công lớn vào Ái Tử, Ðông Hà và căn cứ Anne ở phía
nam, đối diện với quận Hải Lăng. Mục đích là muốn cắt đứt con đường
huyết mạch của QLVNCH, từ Quảng Trị về Huế. Ðể chống lại âm mưu
trên, tướng Giai chia các lực lượng đang tham chiến tại đây thành 5
chiến đoàn đặc nhiệm : Trung đoàn 57 BB giữ bờ nam sông Ðông Hà.
Thiết đoàn 1 + 20 + 2 LD 4,5 BDQ do Ðại tá chỉ huy trưởng LD1 TG chỉ
huy, tái chiếm căn cứ Carroll. Lữ đoàn 258 TQLC từ Ái Tử, tái chiếm
căn cứ Mai lộc. Trung đoàn 2BB giữ mặt trận từ Ba Lòng tới bờ tây
sông Thạch Hãn, ngăn không cho quân Bắc Việt tấn công thành phố.
Cuối cùng là Liên Ðoàn I BDQ, gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77, giữ
con đường huyết mạch từ Quảng Trị tới quận Hải Lăng. Chiến cuộc thật
sự bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch và bị pháo kích
nặng nề. Bởi vậy thay vì quân ta tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về
phía thành phố. Trong số này, nguy khổn nhất là cánh quân của LD5
BDQ và Thiết đoàn 20 chiến xa. Tuy nhiến tính đến ngày 18-4, các đơn
vị của QLVNCH vẫn còn giữ vững đựợc các vị trí chịu trách nhiệm.
Ngày 22-4, Lữ đoàn 147 TQLC sau khi được bổ sung và tái trang bị,
đuợc lệnh trở ra Quảng Trị, thay thế LD 258 TQLC phòng thủ căn cứ Aí
Tử. Trong đêm CS pháo kích làm kho tiếp liệu của SD3BB tại La Vang ,
trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang dụng
của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận từ Ðà Nẵng tới. Ngày 23-4, bất chấp sự
thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với QLVNCH, Không
quân và Hải pháo của Việt-Mỹ, Cọng sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn
công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người của cả
hai phía, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn. Trong lúc đó
gần tháng qua, người lính Miền Nam các cấp, từ TQLC,BDQ, Thiết Giáp,
Bộ Binh, DPQ + NQ.. ngày đêm thiếu ăn mất ngủ, chỉ đứng dưới giao
thông hào, chịu pháo, chịu đạn giữa trời mưa gió. Trong lúc đó khắp
các nẻo đường Quảng Trị, càng lúc càng chết chóc thê thảm , bởi cảnh
pháo kích bừa bãi của cọng sản. Quảng Trị đã thật sự trở thành địa
ngục trần gian thứ hai, sau địa ngục An Lộc.
Ngày 27-4, tất cả nòng súng đại pháo của quân Bắc Việt, đều tập
trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lỉnh, Hải
Lăng. Trong lúc đoàn người tị nạn thay vì tập trung tại Quảng Trị,
lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tìm sinh lộ, gây cảnh hỗn loạn
trên quốc lộ 1. Các cánh quân cũng bắt đầu náo động vì vợ con tan
tác chạy lánh nạn. Do đó nhiều đơn vị đã tự động di tản, làm cho Bộ
Tư Lệnh SD3BB cũng là đầu não chiến trường, mất liên lạc với một số
lớn đơn vị trực thuộc. Ðúng lúc, kho đạn lớn trong căn cứ Ái Tử lại
phát nổ. Ngày 28-4, trước áp lực của địch, cánh quân của LD5BDQ và
TD20 rút về phía bên kia cầu Vĩnh Phước nhưng bị pháo 130 ly của
Cọng sản bắn sập cầu, khiến nhiều xe M48 và đại bác 105,155 ly bỏ
lại bên bờ Bắc. Cũng từ phút đó, các cánh quân còn lại của LD4,5
BDQ, LD 1 Thiết kỵ và Trung Ðoàn 57 BB, phải lui về phòng thủ căn cứ
Ái Tử và thành phố Quảng Trị. Ngày 29-4, lúc 2 giờ sáng, cọng sản
tấn công Trung đoàn 2BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ ở phía tây
thành phố, trong lúc đó về phía bờ biển, cọng sản với bộ binh có
chiến xa lội nước PT76, tấn công các Tiểu đoàn DPQ + NQ của Tiểu Khu
Quảng Trị. Tình trạng hỗn loạn khắp nơi, khiến cho Tướng Giai phải
quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ nam sông Thạch Hãn phòng
thủ. Lúc đó Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ đã
rã ngũ, để chạy theo gia đình đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đã bị
cọng sản đóng chốt nhiều đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, vì Tiểu đoàn
7 TQLC bị chuyển ra phòng thủ căn cứ Ái Tử. Do đó đoạn đường huyết
mạch, chỉ có chín cây số, bị bỏ ngỏ để quân cọng sản đóng chốt, đã
trở thành con đường xương trắng máu hồng., mà bia miệng và sử liệu
gọi là Ðại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng
Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm 1972.
3- Rút bỏ Quảng Trị:
Ngày 30-4, tư lệnh chiến trường kiêm tư lệnh SD3 BB là chuẩn tướng
Vũ văn Giai, triệu tập phiên họp đặc biệt và quan trọng, để bàn kế
hoạch giữ thành phố Quảng Trị và bỏ căn cứ hỏa lực Ái Tử. Do đó
trong cuộc lui quân, LD 147TQLC và TD2. Pháo binh/TQLC , với quân số
trên 2000 người, khi quân qua cầu Thạch Hãn thì cầu bị xập, khiến
cho một số lớn chiến xa, xe cộ , đại bác và quân trang dụng.. phải
bị bỏ lại phía bên kia cầu cho cọng sản. Lúc đó Lữ đoàn 369 TQLC
được tăng cường với nhiệm vụ, giữ mặt tây từ sông Ô Khê tới đầu cầu
Mỹ Chánh, ranh giới hai tinh Thừa Thiên-Quảng Trị. Ðồng thời phải
giải tỏa quốc lộ số 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, đang bị quân
cọng sản chiếm và đóng chốt, nhất là cầu sông Nhung, nằm giữa quốc
lộ 1. Tình trạng này, đã làm gián đoạn giao thông, đoàn xe di tản
của dân và lính, dài hơn ba cây số. Ðây là mục tiêu chính, để quân
Bắc Việt tha hồ tác xạ dữ dội và tàn nhẫn, bằng đủ loại súng lớn
nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết giáp. Hàng ngàn xe cộ,
quân xa cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng chết thảm thương
trong những xác xe cháy nằm la liệt khắp đường. Chỉ những kẻ biết
bơi lội, mới sống sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh.
Ngày 1-5-1972, tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản
chiến thuật. Tin trên chẳng những làm mười bảy triệu dân miền Nam
đau xót bùi ngùi, mà còn khiến cho toàn thể thế giới sửng sốt. Tất
cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay
giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía,
trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon Tum và
nhất là địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo
và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém
đá. Theo Lê Huy Anh Vũ, Trung tá thuộc phòng điện ảnh quân đội, một
nhân chứng trong ba ngày cuối cùng tại Bộ tư lệnh SD3BB, đã viết
tướng Giai có hứa với thuộc hạ, là sẽ cùng với họ đi bộ. Nhưng cuối
cùng tướng tư lệnh đã thất hứa, đã cùng với các cố vấn Mỹ và một ít
sĩ quan tham mưu thân cận, lên trực thăng bay về Huế lúc 16 giờ 40
cùng ngày. Cổ thành Ðinh Công Tráng-Quảng Trị, một căn cứ hỏa lực và
phòng thủ vững chắc gấp 100 lần thị xã An Lộc, bị bỏ ngỏ và lọt vào
tay cọng sản Bắc Việt, tối ngày 2-5-1972.
Giữa lúc đó, cánh quân còn lại tại Quảng Trị, gồm Lữ đoàn 147 TQLC,
Liên đoàn 1 Biệt động quân và các đơn vị của SD3BB, vừa phải bảo vệ
dân chúng di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng độ và lãnh đạn pháo
kích nặng nề của giặc nhưng cuối cùng cũng đã thoát được về Huế, sau
khi lãnh chịu nhiều thương vong thê thảm. Như vậy tính đến ngày
2-5-1972, tỉnh Quảng Trị coi như hoàn toàn bị Bắc Việt cưỡng chiếm.
Nhưng giặc từ bộ đội, chiến xa, pháo binh kể cả đặc công, đã hoàn
toàn bị chặn đứng bên bờ bắc sông Mỹ Chanh, bởi Lữ Ðoàn 368 Thủy
quân lục chiến, do Ðại tá Chung chỉ huy. Nhờ Lữ đoàn này ngăn được
bước tiến của quân Bắc Việt, nên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, với vị Tư
lệnh mới là Trung tứơng Ngô Quang Trưởng (thay tướng Hoàng Xuân
Lãm), mới có đủ thì giờ chỉnh đốn lại các đơn vị và mở cuộc tấn công
tái chiếm Quảng Trị. Sau đó thành cổ Đinh Công Tráng, coi như cũng
được hoàn toàn giải phóng vào đêm 14-9-1972, khi người lính của Ðại
Ðội 3, Tiểu đoàn3 TQLC, treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ của Quốc
Dân VNCH trên kỳ đài. Những tên bộ đội cuối cùng của Trung đoàn 48
cọng sản, lội sông trốn chạy về bờ Bắc Thạch Hãn, sau 82 ngày bám
trụ.
4- Nguyên nhân và hậu quả cuộc chiến 1972:
Ðầu năm 1972, Hoa Kỳ đang bước vào chu kỳ mới với việc tổng thống
Nixon ra tranh cử nhiệm kỳ hai, trong lúc hòa đàm tại Ba Lê giữa Mỹ
và Bắc Việt lại bế tắc. Cùng lúc phong trào phản chiến , do trí
thức, báo chí, truyền thanh truyền hình Mỹ chủ xướng, đang dân cao,
còn quốc hội Mỹ, dưới sự chi phối của đảng dân chủ, lần lượt cắt bỏ
quyền của tổng thống Nixon, đối với sự tham chiến tại VN. Cuối cùng
Mỹ rút hết quân về nước, QLVNCH bị cắt giảm hỏa lực và quân trang
dụng. Ðó là những lý do khiến Hà Nội đốt giai đoạn, vượt tuyến tấn
công ào ạt vào khắp lãnh thổ VNCH vào mùa hè năm 1972.
Nhưng dù đã được Nga-Tàu quân viện và bán chịu cho một số lượng quân
dụng khổng lồ, tối tân như chiến xa T54,55, PT76, đại bác 130,155
ly, súng phòng không 23,57 và hoả tiễn tầm nhiệt SA 7 (nợ chiến phí
này ngày nay VC đem đất đảo biển VN trả nợ cho Tàu đỏ). Ðồng thời xử
dụng hết số 13 sư đoàn tác chiến tại miền Bắc, quân số trên 136.400
người, bất thần mở cuộc tấn công khắp lãnh thổ VNCH.. Tuy nhiên Bắc
Việt chỉ thắng lợi lúc ban đầu , rồi thì sau đó đại bại hầu hết trên
khắp các mặt trận, cho dù đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã xử dụng binh
pháp của Liên Xô, tận dụng triệt để hỏa lực của đại pháo, xe tăng và
biển người, với mục đích đè bẹp nhanh chóng QLVNCH.
Ðối với Hoa Kỳ, khi nhận được tin Bắc Việt vượt vỹ tuyến 17, qua
sông Bến Hải và biên giới Lào-Miên tấn công miền Nam. Tổng thống
Nixon họp Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia, quyết định cho phép Hải Không
Quân Hoa Kỳ, trở lại yểm trợ hỏa lực cho QLVNCH. Ngoài ra bộ binh
không được tham dự, đồng thời cuộc rút quân Mỹ về nước vẫn tiếp tục.
Do đó Mỹ bắt đầu gia tăng các lực lượng yểm trợ, chiến đấu tại VN.
Hai hàng không Constellation và Kitty Hawk, trở lại tăng cường cho
hai Hàng không mẫu hạm Corral Sea và Hancook, cùng một số lớn tàu
tuần duyên, khu trục hạm, có mặt quanh Cửa Việt trên 20 chiếc. Về
Không Quân, từ ngày 15-4-1972, phi đoàn 35 chiến thuật, cùng với 3
phi đoàn F4 của TQLC Mỹ, đều trở lại VN. Ðồng thới tất cả B52 tại
hai căn cứ Anderson Field (Guam) và Utapao (Thái Lan), gồm 38 chiếc,
cũng được lệnh yểm trợ cho chiến trường VN. Ngoài ra, tổng thống
Nixon còn ra lệnh vào ngày 2-5-1972, mở chiến dịch Linebacker 1, tái
oanh tạc miền Bắc, nhất là tại Hà Nội , Hải Phòng. Ðồng thời thả mìn
và thủy lôi, phong tỏa các cửa sông, cửa biển của Bắc Việt, ngăn
chận các tàu thuyền của Nga,Tàu và các nước Ðông Âu, tiếp tế vũ khí
đạn dược, cho cọng sản Hà Nội. Sau đó mở thêm chiến dịch Linebacker
II, kéo dài trong 11 ngày đêm, từ 18/12 đến 29-121972, tàn phá miền
Bắc rất nặng nề, khiến cho Hà Nôi phải trở lại bàn hội nghị, tại Ba
Lê với Mỹ.
Trong trận chiến này, VNCH có hai sư đoàn bộ binh bị tan hàng, đó là
SD22 BB ở Tân Cảnh (Kon Tum) và SD3BB tại Quảng Trị. Nhưng sự tan
hàng và cung cách hành xử của hai tư lệnh sư đoàn trên cũng khác
biệt. Tại Kontum lúc 2 giờ sáng ngày 24-4-1972, cộng quân tràn ngập
căn cứ Tân Cảnh do SD22BB trấn giữ. Ðại Tá Lê Ðức Ðạt tư lệnh, đã từ
chối lời mời của Ðại tá cố vấn Mỹ là Kaplan, lên trực thăng cấp cứu
của cố vân Mỹ tại QDII là Paul Vann. Ông cũng không cầu cứu với
Tướng Ngô Du Tư lệnh Quân Ðoàn, chịu ở lại để cùng chết với binh sĩ
của SD22BB. Riêng SD3BB, trừ Trung đoàn 2BB, còn lại hai Trung đoàn
56 và 57, chưa đụng trận mà chỉ bị pháo kích, đã náo loạn và bỏ
chạy. Còn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh SD, hứa ở lại, để cùng di tản
bộ với đơn vị. Nhưng rồi lại thất hứa, leo lên trực thăng để di tản
với cố vấn Mỹ lúc 16 giờ 40 phút ngày 1-5-1972, bỏ lại binh sĩ của
Bộ Tư Lệnh và Ðại Ðội Tổng Hành Dinh của SD3BB, như rắn mất đầu,
phải chạy theo Thiết Ðoàn 18 về Huế.
Ngoài ra cũng còn rất nhiều chuyện lạ như lúc quân Bắc Việt qua sông
Bến Hải, tràn ngập và tấn công QLVNCH, thì người Mỹ lại dở trò chủ
nhân, làm cho VNCH đang lúc nguy khốn lại càng tận tuyệt. Theo
Turley trong The Easter Offensive, thì việc Bộ tư lệnh KQ Mỹ, cấm
tác xạ vào vùng phi quân sự tại miền Bắc tỉnh Quảng Trị, trong phạm
vi đường kính 27 km, khi tung tin chiếc phi cơ EB66 của một Ðại Tá
Hoa Kỳ, bị hỏa tiễn Sam của cộng quân bắn hạ tại vùng Cam Lộ. Lệnh
này được thi hành suốt 12 ngày đầu của trận chiến vùng hỏa tuyến.
tạo cơ hội cho Hà Nội mở một hành lang an toàn, khi di chuyển qua
vùng giới tuyến mà không bị máy bay hay pháo binh của ta oanh tạc và
tác xạ. Tại căn cứ hỏa lực Ái Tử, trong lúc QLVNCH đang bị giặc vây
khổn và pháo kích tơi bời, lại nhận được thông báo từ các cố vấn,
rằng B52 sẽ đến thả bom san bằng, khiến cho BTL.SD3BB phải cấp tốc
ban hành lệnh di tản chiến thuật. Ðó là tất cả những chuyện khôi hài
cười ra nước mắt, khiến cho ai đọc tới, cũng phải chua xót và tủi hổ
cho thân phận nhược tiểu VN.
Sau hết là cái tình yêu thương giữa đồng bào và người lính trận
trong cơn hoạn nạn, cũng được thể hiện một cách trọn vẹn, qua cuộc
chiến 1972. Chính tại những miền đạn bom lửa máu này, những chỗ
không bao giớ có bóng dáng các vị trí thức, giáo sư, nhà báo, ký giả
hay nhà văn nhà thơ gì gì đó, mà chỉ có người dân cùng người lính
chia nhau niềm đau khổ, đói rách và khủng hoảng tinh thần. Người
quốc gia, từ công chức, cảnh sát, cán bộ cho tới các quân binh chủng
của QLVNCH, ai nấy đều chấp nhận cái chết, chịu ở lại, đổi mạng
mình, để đem lại sự bình an hạnh phúc cho hậu phương. Thắm thiết
biết là bao, đó là sự đùm bọc đồng bào như chính bản thân mình.
Những khẩu phần lương khô ít ỏi, những ngụm nước uống thiếu vệ sinh
cùng với những sớt chia sự nguy hiểm quanh quanh , đều là những viên
thuốc thần dược, xoa dịu và an ủi niềm đau bất hạnh của đồng bào
trong lúc nguy khốn. Chẳng những thế, đối với cán binh bộ đội giặc,
bị bắt làm tù binh, cũng được người lính đối xử nhân đạo với tình
đồng bào, mà không hề phân biệt Nam-Bắc, dù thực chất Hà Nội luôn
coi đồng bào Miền Nam là kẻ tử thù.
Trần Ðức, một người lính nhẩy dù trên đường tiến quân tái chiếm
Quảng Trị, khi ngang qua Ðại Lộ Kinh Hoàng, đã không cầm nổi nước
mắt, giữa hàng trăm, hàng ngàn xác chết bên cạnh những chiếc xe đạp,
xe gắn máy, nằm ngổn ngang, chỏng gọng, những gồng gánh, bao bọc bị
đạn pháo đổ ra tung tóe. Những chiếc xe jeep, xe thùng hồng thập tự,
vết đạn xuyên lỗ chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe
cho thấy những xác người nằm trên băng ca, những cọng băng phất phơ
chỉ còn bám vào bộ xương khô bởi mấy rẽ xương sườn. Có bộ xương em
bé nằm trên bộ xương người mẹ dưới một bụi gai. Có xác khô đét như
người tiền sử nằm giữa đám cỏ may bên lề đại lộ. Có xác nằm sấp, có
xác nằm co như còn mong bờ đất dưới ruộng che chở cho mình thoát tầm
đạn giặc. Ðó đây, giữa đám xác người, rải rác những đuôi đạn súng
cối 61 ly và B40 .Thì ra cộng quân đã đứng rất gần để tác xạ vào đám
dân Quảng Trị chạy loạn. Họ đã bắn như bắn bia. Bắn cho chết đến
người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể người già hay trẻ
thơ. Thật là rùng rợn. Hình ảnh này trong trận tấn công "Mùa Hè Đỏ
Lửa năm 1972" ghi sâu mãi mãi trong ký ức của những người đã chứng
kiến thảm cảnh người dân Quảng Trị phải gánh chịu và tội ác chiến
tranh của cọng sản Bắc Việt.
Ðoạn đường mang tên "Đại Lộ Kinh Hoàng" nay không còn xác chết,
không còn dấu vết của tội ác. Họ đã được thân nhân mang về mai táng
ngay sau đó. Sau tháng 5-1975, đất nước đắm chìm trong tù gông nô lệ
của thực dân VC, vì vậy hằng năm đến ngày giỗ tập thể, hàng ngàn gia
đình ở vùng quê hương Quảng Trị chỉ âm thầm thắp nén hương thơm
tưởng nhớ. Không ai dám hé răng nửa lời. Có những người không còn
thân nhân thì mồ hoang, mả lạnh, không chút khói hương. Nghĩ đến xót
xa làm sao! Họ đã chết tức tưởi mà đến nay họ còn u uất nơi bờ cao
bụi rậm, không sao siêu thoát được. Hẳn họ không sao có thể ngờ được
là nhiều năm sau, người đời vẫn còn nhớ thương họ. Vào ngày 28-4 đến
ngày 2-5-2002 vừa qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh
Quảng Trị đã tổ chức tại chùa Long An thuộc quận Triệu Phong đàn
tràng cầu siêu cho những nạn nhân bị Cộng Sản sát hại trong trận
chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 tại Quảng Trị, mặc dù chính quyền địa
phương đã cho cán bộ đi từng nhà để ngăn cản, đe dọa, chặn đường,
cấm cho thuê xe Thượng tọa Thích Hải Tạng, trụ trì chùa Long An cho
biết, nhân dịp này, đồng bào đã mang hàng trăm linh vị các nạn nhân
của cộng sản trong Mùa Hè Đỏ Lửa đến chùa để xin được giải oan siêu
thoát.
Nghiệt ngã của Dân Tộc Việt là thế đó. Vậy mà còn nhiều tên việt
gian tại hải ngoại cứ dửng dưng ca tụng Hồ và đòi hòa hợp hoà giải
với vòng ôm lớn cùng VC.
Viết tại Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 3-2010
MƯỜNG GIANG
No comments:
Post a Comment