Vừa chạm phải mặt đất, chiếc phi cơ đã hãm ngay đà lại, thân tàu rung mạnh dữ dội như chiếc tàu thủy bị sóng dồi. Núi đồi hai bên chạy ngược qua cửa phi cơ loáng thoáng. Phi trường thuộc hạng B, từ lâu chỉ được xử dụng cho các loại phi cơ cỡ C.47 nay vì tình trạng nghiêm trọng cần tăng viện một số binh sĩ tổng trừ bị, chiếc C.123 phải đáp xuống trong điều kiện kém an toàn. Ra được khỏi phi cơ, tôi thở phào khoan khoái như vừa thoát một đại nạn, mặt đất yên tĩnh dưới chân. Đất vẫn mầu nhiệm cho người sau nguy biến. Nhớ đến lần hạ cánh vừa rồi tôi vẫn còn khiếp hãi... Phi cơ phải lượn từng vòng thật thấp, núi bên trái, núi bên phải, đầu và cuối phi đạo hai vực thẳm, từ ngày bị rớt máy bay ở Bình Giã, tôi đâm ra sợ tất cả các loại phi cơ nên khi từ trên cao nhìn xuống phi đạo ngắn ngủn này tôi đã hoang mang sợ hãi. Nhưng bây giờ thì yên trí. Đất đây rồi.
Quận An Túc nằm giữa đường Qui Nhơn-Pleiku, quận lỵ
vắng vẻ vì quốc lộ 19 suốt cả năm nay không sử dụng được, Việt cộng áp
dụng chiến thuật của chiến tranh năm xưa, chiếm giữ quốc lộ 19, cô lập
cao nguyên, đe dọa các tỉnh miền Trung với ý định cắt miền Nam bằng một
vùng an toàn chạy từ Pleiku xuống Bình Định. Tiểu đoàn chúng tôi đến đây
cùng tiểu đoàn 8 Nhảy dù với nhiệm vụ tiếp cứu cho tiểu đoàn 22 Biệt
động quân, giải tỏa áp lực địch đang đe dọa các trại Lực lượng Đặc biệt.
Sau này chiến dịch biến thành cuộc hành quân dài hạn để khai thông quốc
lộ 19. Đóng quân cạnh phi trường, trong rừng cây ngô đồng, không khí
còn váng vất cái lạnh mùa đông, buổi sáng trời nhiều mù và tối rét co
quắp, rét của đầu xuân cộng thêm rét núi làm mọi người xuýt xoa. Không
có việc để làm, buổi sáng ra chợ uống cà phê, ngồi nhìn lính xếp hàng đi
mua ái tình trước một ngôi nhà có chị em ta. Đầu tháng, lính có tiền,
đồng thời biết rằng cuộc hành quân sẽ kéo dài thật lâu trong rừng tối,
lính cố hửơng cho hết, dù là một phút phù du. Cuộc đời cẩm lẩm như thế,
không nghĩa lý nhưng vô cùng thèm khát. Buổi trưa, đợi lúc trời thật
nóng đi tắm suối, suối chảy dưới hàng cây xanh, nước mát lạnh như đá;
nhìn lên chiếc cầu cao gần mười lăm thước kể từ mặt nước, thân cầu còn
dính bùn và củi mục của trận lụt năm qua. Con suối này là một nhánh nhỏ
của sông Đà-Rằng, con sông mênh mông nhất của miền Trung, thủơ xưa mỗi
lần đi xe lửa qua sông Đà-Rằng trong đêm nghe lung linh một cảm giác lo
sợ mơ hồ.Ở đây, cơn lụt của mùa đông năm trước đã dâng con nước lên đến
mười lăm thước. Sông Đà-Rằng dưới hạ lưu đã dâng nước cao lên bao nhiêu?
Tửơng tượng những làng mạc bị cuốn trôi trong giòng nước hung bạo đó,
không ai có thể nghĩ thêm được một tai ương nào khác cho quê hương này
nữa. Hình như Thượng Đế có căm thù gì với người Việt Nam. Tắm suối, lên
nằm trên một cành cây sát mặt nước, uống hớp rượu đế, đọc một bài cuốn
Pòeme của Eluard... Tôi nằm bềnh bồng trong xanh của lá, nắng nhảy múa
trên da thịt và dưới lưng con suối lặng lờ chảy mãi...
Máng cuốn sách trên cành cây, xong buông mình xuống
nước để trôi dật dờ một quãng xa. Những ngày thật êm đềm và dễ chịu,
tôi nhớ những mùa hè ở biển Đà Nẵng, trần truồng đi trong trời, trong
nước... Không hiểu phải chăng là một tật xấu bệnh hoạn? Nhưng khỏa thân
đứng giữa một vùng thiên nhiên đối với tôi là một trò chơi quyến rũ...
Nằm sấp trên ghè đá, nước chảy qua thân người, phần trên lưng hong khô
dưới ánh nắng, thấy thân thể như nở ra, vỡ đôi, tan thành những mảnh nhỏ
li ti trôi theo rì rào tiếng suối. Hết tắm suối, tôi đi dọc quốc lộ 19
hướng về Pleiku xa thị trấn chừng bốn cây số, nơi đây tuần trước có trận
phục kích. Con đường núi buổi chiều uy nghi và cô đơn lạ thường, màu
đen của mặt nhựa nổi hẳn lên trong màu xanh của rừng, mất trong nền trời
tím đỏ ánh nắng.
Ngày 1 tháng Ba bỏ quận, tiến về phía tây lấy con
đường làm chuẩn tiểu đoàn đi hai bên, đến ấp chiến lược cách quận bẩy
cây số, dừng lại. Các đại đội chia nhau giữ các cao độ để tiểu đoàn 22
Biệt động quân vào lấy xác của binh sĩ tử trận những ngày trước. Xác của
Biệt kích, Biệt động quân được kéo lên xe, chương sình, hôi thối, có
xác của Dương, chuẩn uý cùng học một khóa "rừng núi sình lầy" với tôi.
Nguyễn Thái Dương, tướng người thật vững chãi, mắt sắc, mũi thẳng quắc
thước, từ ngày mãn khóa ở Dục Mỹ đến nay hơn một năm, tôi không biết bạn
đi đâu, giờ gặp lại bạn chỉ còn là khối thịt tanh tửơi. Đất nước này
quả thật hẹp, có những người xa cách đã lâu bỗng nhiên gặp nhau lại
trong một hốc núi, ngôi làng nhỏ hay trên đoạn đường đèo. Gặp lại nhau
còn sống hay đã chết, xa xôi và cũng thật gần. Có người gọi tôi từ ngọn
đồi đối diện... Thông, khóa 17, người hiền nhất trong đám niên trửơng,
cùng trung đội ở quân trường. Trong đời sống tôi có nhiều người ghét hơn
thương, trừ một số bạn gần gũi, những người lạ thường ghét bỏ thậm tệ
ngay khi gặp mặt lần đầu. Tướng khó thương, thôi thì đành chịu vậy. Lúc ở
trường tôi thường bị phạt đến độ khó chịu, ăn cơm trưa xong phải bắt
súng chào ở phòng sinh viên đại đội trửơng cho đến giờ đi học buổi
chiều. Bắt súng chào hơn tiếng đồng hồ quả thật rất nặng nề nhưng cơn
buồn ngủ trưa Đà Lạt mới thật khủng khiếp. Trời lạnh, gió gây gây rét,
nắng ấm không khí như đặc lại, cơn ngủ trưa đối với tôi thật cần thiết,
thế mà tôi bị phạt trong suốt một tuần với cực hình khó chịu. Tôi có
dáng "ba gai", đúng như vậy, nhưng tôi biết lòng trung thực và hào hiệp
hơn bình thường. Sáu năm trời Sói con đến Thiếu sinh trong tập thể Hướng
Đạo, đời sống tuổi niên thiếu ở với bạn bè đã cho tôi biết rằng bản
thân có nhiều tinh thần cộng đồng và trách nhiệm, nhưng nhà binh hình
như không ưa loại người như tôi. Gặp anh Thông tôi mừng lắm, hai năm
chinh chiến anh già trông thấy...
- Tiểu đoàn đụng nặng tuần rồi, suýt nữa chết.
- Nhưng anh không chết là tốt rồi...
Thông cười. Mình hiền quá. Có lệnh cho anh di chuyển. Chúng tôi bắt tay, anh đầu dẫn quân xuống đồi.
Tiếp tục đóng quân tại quốc lộ, mỗi ngày mở đường
tuần tiễu lục soát theo hình cánh quạt xong trở về đóng quân. Trời bắt
đầu nóng, cỏ tranh cao quá đầu người cắt da thành những vết sướt thật
xót, di chuyển trên đồi như đi trong lò lửa, không một bóng mát, hơi
nóng từ đất bốc lên gặp thành những luồng nhảy múa đến hoa mắt. Khát và
đói, đồ ăn khô đã ăn đến ngày thứ mười. Mười ngày không có chất rau, cơm
dọn ra nhìn hộp thịt heo loáng mỡ, cầm đũa ăn một chén lững dạ, nuốt
thêm không được. Tiếp tục đi, mồ hôi vã ra và mệt ngất ngư. Thiếu chất
rau tôi hóa thành lờ đờ ngái ngủ, không ăn được nhiều nên sức khoẻ xuống
đến độ thấp nhất, chỉ linh động được vào buổi chiều sau lần tắm. Thèm
đủ thứ, thèm rau, thèm đồ ngọt, cục nước đá... Tiền đầy túi nhưng không
thể mua ở đâu ra thức cần dùng. Lính đánh bạc như điên, chia bốn anh ra
gác ngọn đồi, họp thành sòng bạc trong nháy mắt. Tàn canh, tên lính đứng
dậy đếm tiền, mười sáu ngàn đồng bạc, nó đã thu hết tiền của ba tên
kia. Đến chiều, lại thua hết sạch trong sòng khác dưới chân cầu. La
mắng, phạt cũng không ngăn chặn được, không có việc làm, dư tiền, lính
không biết làm gì hơn là đánh bạc. Xé bộ bài này, họ lấy giấy bìa vẽ
thành bộ khác để đánh... Chẵn lẻ, đố bạc, đố ruồi, một trăm cách để lấy
tiền của nhau.
Ngày thứ mười hai, chúng tôi thay đổi hoạt động,
không tuần tiễu vào sâu hai bên đường nữa, nhưng đi dọc con đường để giữ
an ninh lộ trình cho công-voa từ Qui Nhơn đi Pleiku. Tiểu đoàn có nhiệm
vụ giữ an ninh đoạn đường từ An Túc đến phía nam đèo Mang. Trung đoàn
địch đang lẫn trốn ở vùng này có nhiệm vụ phá vỡ trục giao thông, phục
kích các đoàn xe và các đơn vị đi mở đường. Nằm trong ngôi nhà của đồng
bào Thượng nhìn vài chiếc xe hàng đi qua không chán mắt. Mới xa thành
phố nửa tháng tưởng thấy như lâu lắm. Con gái ngồi trên xe trông quyến
rũ kỳ lạ như dấu tích của thành phố có điện, có nước đá, của đời sống
không đe dọa. Những chiếc xe hàng đi qua gây một hãnh diện ấm áp trong
lòng. Những ngày cơ cực của chúng tôi đã có kết quả, tạo một bình yên
cho người khác. Chiếc xe xộc xệch, mệt mỏi lăn trên đường như phần
thưởng cho những ngày sống trong vùng núi đồi heo hút. Con đường nhựa,
chiếc xe như dấu vết của thành phố được gần lại. Bao nhiêu lần hành
quân, mỗi khi nhìn vào bản đồ thấy những mục tiêu ở sát một con đường,
dù là đường đất, lòng vẫn thấy dễ chịu. Lội bao nhiêu ngày trong rừng
hay những vùng sình lầy hoang vu, rút quân ra đường nhựa, bước chân lên
khoảng đất bằng phẳng của mặt đường, lòng sung sướng như một thuở về
nhà. Con đường, vạch đỏ trên bản đồ - Dấu hiệu của một đêm một ngày thấy
được mặt trời, ăn được bữa cơm nóng. Ký hiệu một vạch đỏ trong vùng
rừng xanh ngắt đối với lính thật quí giá và thân thiết.
Tháng Chín năm 1964 hành quân mười ngày trong mật
khu Hố Bò rút ra bị phục kích gần Bến Mương, băng qua bãi Nhảy dù - Củ
Chi - trung đội tôi chạy muốn tắt thở, đến quốc lộ mừng rỡ như thấy cứu
tinh, muốn cúi xuống hôn trên mặt nhựa đường. Thằng Ngọ, thằng bé làm
cho tôi đi đến, cười toe toét:
- Em kiếm được cái bắp cải.
- Đâu?
Ngọ rút trong bụng ra một bắp cải nhỏ bằng hai nắm tay, lớp lá ngoài thối ủng chỉ còn lại phần lõi bên trong.
- Lấy chai xì dầu, kiếm tí ớt...
Xì dầu được đổ ra, ớt dầm thật cay, hai thầy trò bẻ
từng cuộn lá chấm vào chất nước đen sì. Cay đến chảy nước mắt. Không
biết vì nước mắt chảy ra hay chất rau đã làm mắt tôi sáng lên. Trong
bóng nắng miền núi, tôi và thằng bé ăn bữa rau ngon nhất trong đời. Ngọ
cười hả hê.
- Em có xin được miếng thịt heo.
- Heo của ai?
- Heo của đồng bào bỏ lại, tụi đại đội 70 làm thịt, em xin.
- Tốt, gắng kiếm tí rau nữa thì hơn.- Tôi cho nó
hai trăm đồng, thầy trò rủ nhau xuống chân cầu tắm, vui sướng và dễ chịu
được sống qua một ngày đầy đủ.
Ngày thứ mười lăm của cuộc hành quân, bỏ quốc lộ
tiến sâu vào bên phải, dọc theo con đường đá dẫn về phía Bắc. Bản đồ quá
nhỏ không biết con đường dẫn đi đâu, Việt cộng sử dụng con đường này để
giao liên và chuyển quân. Ngàyhôm kia Việt cộng đánh trại Lực lượng Đặc
biệt K’nack, bộ chỉ huy chiến đoàn ước tính địch sẽ rút về án quân ở
những thung lũng phía đông quốc lộ, nơi cuối con đường chúng tôi đi đến.
Chiến đoàn sử dụng tiểu đoàn 8 Nhảy dù trực thăng vận từ phía bắc
xuống, tiểu đoàn tôi lấy con đường đá làm chuẩn di chuyển từ phía nam
lên. Hai bên sẽ giao tiếp nhau trong ngày thứ hai của cuộc hành quân.
Tiểu đoàn di chuyển thật chậm, không phải lối đi khó nhưng địa thế quá
bất lợi nếu Việt cộng phục kích. Con đường đá nằm lọt trong thung lũng
không thể đi trên đường vì sợ chông và mìn, chông lớn bằng cột nhà được
trồng nghiêng nghiêng đầy hết con đường để chống trực thăng vận, mặt đất
la liệt chông nhỏ để chống người. Việt cộng thật cẩn thận, bất kỳ một
trảng to hay nhỏ nào chúng đều đặt chông tua tủa. Tiểu đoàn lấy mé đồi
bên phải đường làm hướng đi, cỏ lau dày đặc nóng bức đến nghẹt thở. Cơm
trưa, nghỉ được mười lăm phút lấy nước xong tiếp tục đi. Hai giờ chiều,
trung đội đi đầu của đại đội 73 đụng địch. Địch khai hỏa trước, thượng
liên và AK nổ ầm ĩ át hẳn tiếng súng Carbine M.2 bên ta. Tiểu đoàn được
lệnh rời sườn đồi xuống hết trên con đường.
- Báo cáo có hai chết, khinh binh chưa lấy xác được.
Bao nhiêu lần đều như vậy cả, đại đội 73 đi đầu với
anh trung đội trưởng Toàn, tức là Toàn "nhọ" thì thế nào cũng đụng
trận. Mặt nó có "cô hồn". Quả thật vậy, Toàn đen kịt, đen ròn, mặt xương
dáng cao gầy, người của nó là một cái gì khô đét, ẩn kín vào trong.
Đại đội 73 đưa thêm một trung đội nữa lên phía tay
mặt, kẹt luôn. Địch bố trí thẳng góc với hướng quân chúng tôi, rừng quá
dầy không xung phong được. Toàn báo cáo đã lấy được một thượng liên và
bốn AK. Trận đánh vẫn tiếp tục bằng pháo kích, đạn súng cối của Việt
cộng nổ dọc con đường đúng với hướng tiến vừa rồi của tiểu đoàn chúng
tôi. Đúng là địch đã theo dõi chúng tôi từ trước. Đạn nổ cách khoảng
mươi thước một từ đầu đến cuối đoàn quân và ngược lại. Súng cối của Việt
cộng cứ bắn đều đều, tiểu đoàn không dám dùng súng cối để phản pháo vì
sợ lộ vị trí, đồng thời biết chắc rằng cũng không có hiệu quả, súng cối
địch đã được che dấu kỹ ở dưới các hầm sâu. Phía đầu của hàng quân, đại
đội 73 xử dụng hết cả ba trung đội tác chiến nhưng vẫn không thanh toán
được mục tiêu. Địch cố thủ trong những giao thông hào, bên ta không tiến
sát được. Việt cộng bắt đầu đổi hướng tác xạ, thay vì bắn dọc bên phải
con đường, bây giờ chúng bắn rơi ngay trên đường nơi toàn bộ tiểu đoàn
đang bố trí hàng dọc. Một quả đạn rơi đằng trước mặt chúng tôi. Tôi báo
cáo đại đội trưởng:
- Xin cho rút lên bên phải con đường lại.
Không có tiếng trả lời. Bộ chỉ huy tiểu đoàn từ
phía trước chạy dạt về sau, địch đã pháo kích trúng, hai binh sĩ bị
thương, tiểu đoàn rút lên bên phải con đường. Trong máy truyền tin nghe
những tiếng la, Việt cộng gọi đích danh tên tiểu đoàn trưởng và đại đội
trưởng ra để trêu chọc. Một màn xỉ vả nhau trong máy diễn ra giữa ta và
địch. Đổi qua tần số giải toả, chúng nó biết tần số mình rồi... Mấy anh
hiệu thính viên (lính truyền tin) bảo nhau ơi ới. Bây giờ Việt cộng pháo
kích một chỗ, phần cuối của đại đội 73 và đầu đại đội tôi.
- Rút lên đồi đi.
Tôi ra lệnh cho anh xạ thủ đại liên lên trước. Một
tiếng nổ thật gần, ánh sáng lòe lên trước khi nghe được. Người tôi bị
nhấc bổng lên một khoảng xong rơi xuống, áo quần rách toang như vừa bị
xé bởi lưỡi dao thật bén, chung quanh trung đội nằm la liệt.
- Gọi Tăng Màn Tài đến!
Anh trung đội phó người Tàu chạy đến mặt mày hớt hải:
- Chết rồi! Chết rồi...
- Chết thế nào được, nhặt súng mấy thằng bị thương
bó gọn lại... Tôi nghẹt thở nói tiếp không được,cởi dây đeo đạn trao
khẩu súng cho viên trung sĩ xong bò lên đồi nơi bác sĩ Đạm đang băng bó.
- Có sao không bác sĩ?
- Không sao, ông chỉ bị nhẹ thôi...
- Có gì bác sĩ cứ nói cho tôi biết. Tôi năn nỉ thảm thiết tựa như mình sắp chết, một đoạn ruột lòi ra trắng phếu trông đến sợ...
- Không sao, tôi bảo đảm với ông như vậy.
Nghẹt thở quá phải há mồm ra. Tôi thất sắc. Chết
rồi, thường người sắp chết hay há mồm ra thở như thế này, đồng thời tôi
cũng đã biết, khi bị thương nặng mà tỉnh táo thì thế nào cũng đi đoong.
Chết, tôi nghĩ đến một cái gì thật lạ lùng nay sắp phải gặp. Niềm bí ẩn
khiếp sợ của con người, tôi sắp đến với nó đây. Trong cuốn L’Idiot có
đoạn nói người sắp chết lúc ở trên đài xử giảo, trong giây phút cuối
cùng của đời sống hắn tay đâm ra sáng suốt và bình tĩnh... Tôi cho đó là
nói quá, nhưng bây giờ thì quả thật vậy. Những giây phút đầu tiên tự
nhiên lắng dừng lại, tôi bình thản một cách lạ lùng... Tuổi nhỏ, tuổi
lớn, những ngày vui, bạn bè, các em và mẹ tôi, những phút giây sung
sướng, những nghèo nàn cơ cực phải gặp, tình yêu đầu tiên, sự thương mến
của những thằng bạn quý... Tôi nghĩ ngợi mông lung như đang ở trong lúc
nhàn hạ. Trời đã tối, đại đội 73 ở trước vẫn còn đụng độ, nhưng địch
hình như rút lui xa, tiếng súng cá nhân nghe rời rạc, nhưng thay vào đó
súng cối địch bắn mạnh hơn, may mắn đạn chỉ rơi vào khoảng trống không
gây thiệt hại nào, cũng có quả đạn nổ thật gần làm giật bắn người.
Không lẽ lại bị thương thêm một lần nữa? Nhìn lên
trời cao, sao sáng rực, đêm mát mẻ, bây giờ tôi tỉnh táo hoàn toàn đâm
ra nghĩ lẩn thẩn. Nếu địch tấn công trở lại và tràn ngập thì chỉ một
cách là leo lên cây trốn. Tôi đưa mắt tìm một cây cao và rậm dễ trèo lên
nhất... Phải có một sợi giây để cột mình vào thân cây cho khỏi bị té.
A, còn đôi giây giầy đây. Tôi yên dạ.
Phi cơ bắt đầu oanh tạc bom napal, rừng bị đốt cháy
sáng rực một góc trời. Mùi cỏ cây cháy khét bốc lên ngây ngất, ngọn lửa
như một cứu viện bình yên. Tưởng đến cảnh địch phải bỏ chạy trong biển
lửa tôi yên chí ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Chiến tranh làm nẩy nở
toàn diện bản năng tranh sống nên không thể bảo do tàn bạo khi nhìn ngọn
lửa nhảy múa trong bóng đêm, tưởng đang đốt cháy kẻ ở phía thù nghịch
và lòng thoáng rộ hân hoan kỳ quái. Tôi không thù oán những người phía
bên kia, nhưng một cuộc đấu chỉ kết thúc khi một bên bị tiêu diệt. Lẽ
tất nhiên tôi không muốn bị tiêu diệt.
Chiếc xe Jeep đưa tôi từ Tân Sơn Nhất về bệnh viện
Cộng Hòa chạy trong nóng bức ồn ào của thành phố Sài Gòn. Bây giờ thì
tôi đã kiệt lực lắm rồi, hai mươi bốn giờ sau khi bị nạn, hai chuyến máy
bay, bây giờ thêm một lần xe. Mỗi khi xe lắc lư người muốn gẫy đôi, tôi
tưởng chừng như những mảnh đạn cứa vào ruột theo chuyển động của chiếc
xe. Mồ hôi vã ra như tắm, tôi gắng gượng ngồi dậy để dễ thở. Chưa có một
đoạn đường nào dài đến thế trong đời phải đi qua. Thấy được cổng bệnh
viện Cộng Hòa, mừng rỡ muốn ứa nước mắt. Tin chắc rằng thế là thoát
chết. Xong rồi, tôi có thể thở dài khoan khoái, thoát nợ.
Phòng mổ số Hai sơn màu xanh mát lạnh. Tôi tỉnh hẳn
người khi nằm đợi trên bàn mổ. Chẳng có gì phải lo ngại. An Khê — Sài
Gòn, chiến tranh, tất cả coi như giải quyết xong. Bác sĩ Thanh đi vào
cùng với bác sĩ Các, mọi người chuẩn bị đồ nghề để "khui" tôi. Tôi nhìn
các động tác của họ, dụng cụ phòng mổ, tò mò như kẻ ở ngoại cuộc. Khi
người y tá rút cây kim ra khỏi mạch máu thì căn phòng hóa ra mờ dần, mờ
dần... Tôi ngủ thiếp đi.
Tháng 3-1965. An Khê.
Chương 10: Những Ngày Gãy Vụn
Ngày
9 tháng Sáu, nằm ứng chiến tại hậu cứ tiểu đoàn 8 Nhảy dù đã ba ngày,
tiểu đoàn chỉ có việc huấn luyện tại chỗ cho binh sĩ, đồng thời sẵn sàng
di chuyển. Mười một giờ, tiểu đoàn được lệnh ra phi trường Tân Sơn
Nhất. Lãnh bản đồ của Vùng III chiến thuật, như vậy dự định hành quân ở
miền Trung được hủy bỏ. Chiến trận vùng III trở nên khốc liệt, quận lỵ
Đồng Xoài bị tràn ngập ngày hôm qua. Quận Đồng Xoài, nếu gọi đúng địa
danh hành chánh là quận Đôn Luân bị tấn công mạnh, quân trú phòng bị tổn
thất nặng. Một tiểu đoàn Bộ binh và một tiểu đoàn Biệt động quân đã đến
tăng viện, chúng tôi phải đến Đồng Xoài ngay chiều hôm nay. Ba giờ
chiều, tiểu đoàn đến phi trường Phước Long, ngủ đêm tại đây đơi ngày mai
trực thăng vận vào Đồng Xoài.
Ngày 10 tháng Sáu, quận lÿ hiện ra tiêu điều xơ xác
trong ánh nắng vàng võ của buổi chiều. Nhà cửa ở khu phố ngoài hàng rào
văn phòng quận bị sụp đổ hoàn toàn trơ vơ vài bức tường cháy loang lổ,
vết đạn ghi đầy. Tiểu đoàn 52 Biệt động quân xuống trước chúng tôi một
ngày nay đang bố trí giữ hướng tây của quận. Chúng tôi tiến vào lục soát
khu vực phía đông. Bên trong dãy nhà sập, thảm cảnh vẫn còn nguyên dấu
vết, có gia đình một mẹ ba người con chết từ hai ngày chưa ai hay, căn
nhà đã đổ xuống phủ kín bốn thây ma xông lên mùi nồng nặc. Quận lỵ đầy
hơi tử thi, chúng tôi không dám moi gạch lên để tìm xác chết vì xác chết
đem ra ngoài ánh sáng lại càng hôi thối hơn. Có những xác Việt cộng của
ngày tấn công hôm trước không được đồng bạn kéo đi nằm ngổn ngang trên
lối đi, ruồi bâu vào những lỗ thủng của vết thương bay vù lên như một
đám bụi nhỏ khi chúng tôi đi qua. Đại đội 72 báo cáo: Bắt được một tù
binh Việt cộng, tên người gầy rạc, nét mặt kinh hoàng không thể trả lời
với chúng tôi được một câu hỏi. Bỏ quận lỵ lại, tiểu đoàn tiến dọc theo
liên tỉnh lộ 14 hướng về đồn điền Thuận Lợi. Lấy con đường làm chuẩn,
tiểu đoàn chia làm hai cánh quân đi song song. Đến khu rừng cao su non,
khinh binh đi đầu báo cáo: Có nhiều xác chết mặc đồ bộ binh. Kéo ra
đường đợi trực thăng xuống mang đi. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh. Đến bây
giờ chúng tôi mới có thể biết nhiệm vụ được giao phó: Đi nhặt xác chết
của đơn vị bạn. Tiểu đoàn bạn đã được trực thăng vận đến nơi này trong
ngày 8 tháng Sáu, bị phục kích ngay tại bãi đáp, trực thăng và binh sĩ
bị đàn áp bởi một hỏa lực hung hãn trong khỏang thời gian nguy hiểm nhất
của cuộc hành quân trực thăng vận, tiểu đoàn này đã bị đánh tan ngay
trong giờ phút đầu tiên của trận chiến. Xác chết nằm rải rác dài trên
cây số, càng đi sâu lên phía bắc, người chết càng nhiều. Những người bạn
xấu số chết như nằm ngủ, có anh ở vị thế ngồi, có anh đang ẩn mình sau
gốc cây, có xác chết như vừa ngã xuống. Đến chiều, tiểu đoàn chúng tôi
chỉ nhặt được trên bốn mươi xác. Lệnh ngủ đêm tại đây, sáng mai thu nhặt
nốt. Đã quen với chiến trận và xác chết, nhưng phải ngủ trên cùng một
chỗ với người chết, hơi thối bốc lên tanh cao, không ai không khỏi ái
ngại.
- Cái nón sắt thằng nào vứt đây?
Không có tiếng trả lời. Tên lính tiếp:
- Không thằng nào nhận thì tao lấy.
Một lát sau có tiếng tru tréo:
- Đ.m... Nón của thằng chết, còn dính óc tùm lum đây nè...
Tôi hút thuốc lá liên miên, trời mưa, tưởng chừng
như những xác chết phình lên dưới cơn mưa, bốc hơi ngùn ngụt và chúng
tôi hít thở bầu không khí nặng mùi đó.
- Ở đây có một thằng chết nữa!!
Tên lính đổi gác về vấp phải thây ma la lớn...
- Đ.m... Chết quái gì kỳ thế này, tìm suốt buổi chiều không có, bây giờ mới bò ra.
Đêm thật dài với những thây chết bên cạnh. Một rủi
ro xảy đến, gió làm rơi cành cây đè chết một binh sĩ của đại đội 74. Xui
rồi, chưa gì đã chết nhảm, kỳ hành quân này chắc cũng giống như lần ở
Bến Cát... Lính bàn tán. Ngày 11 tháng 6 tiếp tục nhặt xác, trận mưa đêm
qua làm các thây ma trở nên khó coi, da người chết căng mỏng tanh và
trắng nhớt tưởng như đụng vào sẽ vỡ toang. Xác chết gặp nước căng phồng
lên phải bốn người khiêng mới nổi. Hai người nắm cổ tay, hai người giữ
đôi chân. Xác chết được kéo xềnh xệch trên mặt đường, xếp cạnh nhau như
những con bê. Sĩ quan chúng tôi cũng phải làm việc này để rút bớt thời
gian. Thoạt đầu còn e ngại nhưng đến xác thứ tư thứ năm lớp thịt nhũn
của xác chết tiếp xúc với bàn tay hóa thành quen. Đi từ nơi để xác trở
vào rừng, tôi không dám nhìn vào hai bàn tay của mình, thịt da người
chết đã phết một lớp dầy trên da tay. Hai giờ chiều, xác chết đã nhặt
được hết, tôi chà tay xuống mặt đất như muốn bóc hẳn lớp da. Thèm điếu
thuốc lá nhưng không dám đưa bàn tay lên môi.
Tiếp tục tiến quân lên hướng bắc, mục tiêu là đồn
diền Thuận Lợi, việc nhặt xác chết đã làm mọi người trở nên phờ phạc,
hơn nữa dân chúng từ khu đồn điền chạy về Đồng Xoài đã báo nhiều tin tức
đáng ngại. Trung đoàn Q.762 Việt cộng đang lẩn khuất đâu đây để rình
rập chúng tôi. Mọi người mệt mỏi căng thẳng đến cao độ.
Đến con đường vòng quanh đồn điền, một vài tên Việt
cộng chạy thấp thoáng. Có tiếng súng nổ rời rạc ở đầu đại đội 74. Việt
cộng nổ súng xong chạy vào trong đồn điền. Đúng là chúng đang dụ chúng
tôi. Đoàn quân dừng lại một lát để chờ ý kiến quyết định của tiểu đoàn
trưởng. Lệnh cho đại đội 74 và 72 tiếp tục tiến sâu vào đồn điền. Tiểu
đoàn tiến lên phía bắc năm trăm thước thì dừng lại. Đại đội 70, 71, 73
bố trí thành một hình bán nguyệt, trông về phía tây và phía nam hướng
tiến. Đến bây giờ chúng tôi cũng không biết lệnh tiến vào khu đồn điền
xuất phát từ bộ chỉ huy hành quân hay quyết định của tiểu đoàn trưởng.
Cấp trung đội trưởng không được họp để biết rõ chi tiết trên. Riêng
chúng tôi ở đầu hàng quân đều nhận thấy rõ rằng: Địch đang dụ chúng tôi
vào bẫy. Nhưng nhà binh là tuân lệnh, nguyên lý cứng nhắc đó không đủ để
dẹp hết e ngại. Toán dân chúng buổi sáng chạy về Đồng Xoài đã cho chúng
tôi biết: Địch ở khu đồn điền rất đông đến cấp trung đoàn, bộ chỉ huy
địch tổ chức sinh hoạt như một khu an toàn. Ăn uống liên hoan, tranh
giải thể thao... Chúng sẵn sàng đè bẹp chúng tôi!
- Đống Đa đây 3 báo cáo có rất nhiều điểm khả nghi,
địch bắn chúng tôi rồi bỏ chạy. Không thấy người được, địch chạy dưới
giao thông hào.
Tôi báo cáo với đại đội trưởng, ông ta hỏi ý kiến của tiểu đoàn, lệnh được lập lại. Tiếp tục vào, cẩn thận.
- Vào cho chết à. - Mấy tên lính đi khinh binh cằn nhằn. - Nó dụ mình vào mà cứ tưởng bở.
- Đừng nói nữa, coi chừng mấy cái nhà trước mặt.
Thấp thoáng sau thân cây cao su, nhà của đồn điền
bắt đầu thấy rõ, nhà gạch lớn mái đỏ, nhà làm mủ cao su, nhà thờ của
công nhân, khu đồn điền trông như một thành phố nhỏ. Từ trong những dẫy
nhà, địch bắt đầu khai hỏa. Chỉ có súng cá nhân. Đánh được rồi chúng
mày. Lính bảo nhau. Đại đội 74 đưa trung đội 1 do thiếu uý Dũng lên
chiếm một dẫy nhà đầu tiên, một trung đội của đại đội 72 tiến lên song
song. Việt cộng bỏ khu nhà chạy sâu vào trong. Áo xanh của chủ lực quân
Việt cộng hiện rõ ràng trên nền tường quét vôi trắng.
- Báo cáo không thể tiến thêm được nữa, địch quá đông, xin pháo binh.- Tôi gọi về đại đội nói như hét.
- Không bắn pháo binh được, khu đồn điền có dân và có nhà thờ.
- Dân con mẹ gì.- Tôi la muốn vỡ phổi để phản đối.- Không phải dân đâu, toàn là Việt cộng thôi...
- Bộ chỉ huy hành quân quyết định không cho bắn, anh về đó mà kiện...- Đại đội trưởng cũng hằn học không kém.
Một vài người lính bộ binh thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh
bị Việt cộng bắt đi trong ngày mùng 8 từ mấy ngôi nhà bên cạnh chạy ra
gọi chúng tôi rối rít.
- Không vào được đâu các anh, tụi nó cả trung đoàn ở trong đấy!!
Không thể lùi được nữa, vào đến đây chỉ còn con
đường tiến trước mặt. Khu trung tâm đồn điền có một cái lầu nước bên kia
phi đạo, chúng tôi đang ở trên một sườn đồi, trước mặt địa thế quá
trống trải. Hai trung đội của Dũng và Đỗ được lệnh ép trái, để tránh
đường đạn của địch, băng qua phi đạo chiếm khu trung tâm đồn điền. Đến
giờ phút này, phía trái và đằng sau lưng chúng tôi vẫn chưa có tiếng
súng. Trời bắt đầu mưa, mưa đầu mùa, gió thổi mạnh oằn thân cây, lá cao
su bay dầy đặc. Khu đồn điền mịt mờ như trong buổi hoàng hôn. Mưa trút
nước càng ngày càng mạnh, khu rừng biến thành tối đen. Hai đại đội đi
đầu dồn hỏa lực để yểm trợ hai trung đội vượt phi đạo... Thật nhanh,
lính của Dũng và Đỗ vượt qua phi đạo với tất cả sức mạnh của đôi chân.
Được nửa phi đạo, súng nổ. Từ lầu nước, đại liên 50 và 30 ly nổ không
dứt, đạn cầy trên mặt cỏ bốc bụi đầy. Lính của hai trung đội ngã nhào
xuống như những thân cây bị đốn. Đỗ chết ngay tại chỗ, Dũng bị thương ở
tay cố chạy dạt về phía trái được ba bước, một loạt đạn nữa ghim ngang
ngực, Dũng ngã xuống đất bất động. Hai người lính sống sót độc nhất của
hai trung đội bò về phía sau. Bây giờ súng nổ rền chung quanh. Từng loạt
hô xung phong vang lên khắp bốn phía rừng. Tiếng mưa đổ trên lá, sấm
sét bị át hẳn vì tiếng súng và người la ó. Trong bóng mờ mịt mùng của
khu rừng, những bóng đen hiện rõ mồn một.- Đầu hàng, đầu hàng! - Việt
cộng vừa tiến đến vừa la lớn....Hàng con c...! Bắn trả lại, không kịp!
Đạn chạy ra khỏi nòng súng trong nháy mắt, lắp thêm một băng nữa, một
họng súng kề trước mặt. Chạy lui vào gốc cao su bắn trả lại... Lính của
hai đại đội 72 và 74 chạy dạt hẳn về phía tay phải. Khu đất phía tay
phải là một sườn đồi thấp xuống thật trống trải với một vườn chuối non.
Hết đường rồi, trước mặt, phía trái, đằng sau AK của địch át hẳn Carbine
M.2 của chúng tôi. Một vài anh lính đại đội 71 chạy lên dáo dác. Việt
cộng có cả xe bọc sắt...- Đ.m, đánh không được nữa. Ông Kỳ (đại đội
trưởng) chết rồi.- Máy truyền tin im bặt. Bây giờ là lúc cá nhân tự
chiến đấu...
Qua khỏi khu vườn chuối cuối cùng của sườn đồi, một
hàng rào dây kẽm gai bít lối. Những người lính đầu tiên sắp sửa chui
qua thì từ phía bắc đại liên bắt đầu nổ, tôi nghe rõ tiếng đại liên 12
ly 7. Một tiểu đội ngã gục ngay trong giây phút đầu tiên. Hết đường,
đúng là đến đường cùng. Tôi chạy lui về phía nam, một cảnh tượng đau
lòng và kinh khiếp. Lính của đại đội 73 coi như chết gần hết, còn lại
khỏang chừng hai tiểu đội vừa bắn vừa kéo lên phía chúng tôi. Cuộc gặp
gỡ thật bi thảm, một phần của đại đội 70 từ cánh phải kéo đến. Trung uý
Hợp, đại đội trưởng 70 chỉ tay về phía trái...- Con đường này có thể
chạy được, cậu (chỉ tôi) dẫn anh em chạy ra đấy.- Tôi gật đầu bừa, kéo
số còn lại chạy theo hướng vừa chỉ, cố tránh xa lằn đạn đại liên của
địch đang bắn dọc hàng rào... Chỉ còn một lối này, may thì sống, không
thì mất. Đang phân vân chưa dám lao mình qua hàng rào, một loạt đạn bay
vụt đến, tôi ngã xuống như một chiếc lá khô...
Trời tối mịt, mưa vẫn ào ào trút xuống, rừng đen
thẫm. Tiếng súng đã im, nhưng xung quanh âm âm tiếng rên rỉ của người bị
thương. Bây giờ tôi mới biết đạn trúng vào tay và mặt, vết thương xem
như nhẹ nên rất tỉnh táo. Chính điều này mới thật khốn khổ vì Việt cộng
lục soát thấy được tôi thế nào chúng cũng giết hoặc bắt đi, cả hai đều
đáng lo ngại.
Tôi tỉnh táo nên có thể nghe rõ tiếng kêu cứu trong
đêm tối, lời rên la thảm thiết như âm vọng từ cõi chết. Nước mắt chợt
trào ra, nhớ lại những kẻ chết từ buổi chiều, nay tôi chứng kiến thêm
những giây phút hấp hối của đồng bạn. Người sắp chết trong những giây
phút cuối cùng chẳng ai nghĩ đến bản thân, tất cả chỉ nghĩ đến cha mẹ,
vợ con... Những tiếng kêu:
- Con ơi... Mình ơi... - như những mũi daonhọn đâm
thật sâu vào người, tôi muốn bịt tai lại để khỏi nghe phải. Nhưng đêm im
lặng, lời than hấp hối kéo dài, vang xa... Có chân người xì ầm đến,
Việt cộng đi thanh toán chiến trường! Tiếng chửi mắng chen lẫn tiếng nổ
khô và gọn. Chúng chửi mắng hoặc bắn chết thương binh. Chưa bao giờ tôi
căm thù và ghê tởm bọn chúng đến ngần này. Chiến tranh là luật của sống
chết, nhưng khi người đối địch với mình ngã xuống thì ai nỡ lòng nào để
hành hạ và giết chết. Lũ chúng nó, loài không có linh hồn. Đã bao lần
chúng tôi bắt được tù binh, kẻ cho thuốc lá, người cho cơm ăn, những
người lính Nhảy dù xưa nay vẫn có tiếng là cứng rắn nhưng chưa một lần
nào chúng tôi hành hạ tù binh, huống gì tù bị thương. Nhưng ở đây, bọn
Việt cộng như một kẻ vô linh hồn, chúng quên mất tình người... Người nằm
đấy, những người Việt Nam chung với chúng một dòng máu, chiến tranh đã
biến đổi họ thành thù địch trong trận đánh, nhưng bây giờ còn gì để tạo
nên thù hận! Nhưng rõ ràng tôi nghe trong bóng đêm những tiếng chửi mắng
tục tĩu, và những tiếng nấc cuối cùng của người chết khi nhận những lát
dao tàn bạo hoặc những viên đạn cuối cùng thật chính xác nổ vào đầu...
Tôi bò nhanh về phía tay phải theo triền dốc, đâu đâu cũng có người
chết, có xác đã lạnh cóng, có xác còn nóng của những kẻ vừa chết. Tôi
đụng vào một người.
- Ai đó? Tôi, Cấm đây, cứu dùm tôi với...
Có tiếng chân người chạy đến, một tên Việt cộng...
- Mẹ mày, để tao cứu cho.
Nó cười hềnh hệch man dã, một viên đạn nổ chát
chúa, nó bắn vào đầu anh Cấm... Tôi nằm im không nhúc nhích, mặt úp
xuống lá cao su. Tôi giả vờ chết khi tên Việt cộng đá vào chân. Hỏa châu
bắt đầu thả xuống, những xác chết ẩn hiện theo luồng ánh sáng xuyên qua
cành lá kinh khiếp và thê thảm như một cảnh địa ngục. Một phi cơ xuất
hiện, bom trút xuống, khu đồn điền rung rinh như cơn động đất, lửa cháy
sáng rực, những người bị thương cố vùng lên để chạy xong ngã xuống, chập
choạng nhưng xác chết nhập tràng... Tôi cố bò về phía ngọn suối, vượt
qua hàng rào dây kẽm gai, đè ngay lên một xác chết... Khỏang bốn giờ
sáng, tôi kiệt lực khi biết mình ra đến con lộ chạy từ Đồng Xoài lên.
Việt cộng tập họp điểm danh ồn ào cả một khu rừng, rồi chúng bắt đầu đi.
Bước chân người dồn dập như một cuộc diễn binh vĩ đại kéo dài cho đến
khi trời ửng sáng. Không hiểu ai đã ra lệnh cho cuộc dội bom vừa rồi?
Chắc hẳn những người đó muốn kết thúc thời gian hấp hối của thương binh
đơn vị tôi! Tiên sư cha chúng nó, sao không dội bom ngay trên con đường
nơi Việt cộng tập họp... Tôi chửi thề với uất giận cao độ. Hai mươi bốn
giờ sau khi về được bến Đồng Xoài, lớp thịt chung quanh chỗ bị thương đã
thối loét hẳn đi, tôi muốn thổ huyết vì giận dữ khi đi qua lều của bộ
chỉ huy hành quân, những viên sĩ quan tham mưu ngồi nhìn tôi như con vật
lạ...
Những sự kiện trên đây do Hải, người trong cuộc kể
lại. Tôi nghỉ dưỡng thương ở nhà nên bi kịch chỉ thấy được tại hậu cứ,
nơi cường độ bi thảm lên tới tột đỉnh. Ngày 12 tháng Sáu đang ở Sài Gòn,
đột nhiên lòng nóng như lửa đốt, vết thương ở bụng từ tháng Ba đến giờ
vẫn chưa lành hẳn. Tôi mượn chiếc Lambretta của một người bạn chạy thật
nhanh về nhà ở Biên Hòa. Dọc đường gặp một người lính cùng đơn vị.
- Thiếu uý có biết gì không?
- Có gì xảy đến cho tiểu đoàn, bao giờ tiểu đoàn về?
- Vậy không biết gì hết sao? Tiểu đoàn đụng nặng ngày hôm qua, giờ này chưa biết rõ, nhưng chắc bị nặng lắm...
Tôi bỏ anh ta lại đằng sau, phóng xe như bay vào phi trường, doanh trại chưa đến nhưng đã nghe lao xao tiếng người...
Gia đình binh sĩ đứng đông nghẹt ở sân cờ, những
người vợ lính con cái xúm xít, nét mặt lo âu, có người đã khóc thút
thít, tóc xổ tung, nước mắt đẫm mặt, có người không đủ bình tĩnh nằm vật
ngay trên thềm của văn phòng... Thiếu uý San, chỉ huy hậu cứ bối rối an
ủi từng người một.
- Sao anh San? - Tôi hỏi nhỏ - có tin gì đích xác không? - Anh San kéo tôi vào văn phòng.
- Nặng lắm, chưa biết rõ chính xác, nhưng chắc là ông Trưởng và ông Phó chết rồi!
- Tiểu đoàn trưởng chết, thì còn gì nữa. Các sĩ quan khác ra sao?
- Chưa biết rõ, chỉ cò năm ông sống sót... Bác sĩ, ông Tân, ông Đông, đại uý Phát và Chánh.
- Còn các sĩ quan khác?
- Chưa rõ.
Mấy thằng bạn của tôi?!! Người tôi như bị say sóng, ngồi xuống một chiếc ghế, thấy mình kiệt lực.
- Anh tính mình mất bao nhiêu?
- Chưa rõ được, nhưng chắc hơn một trăm.
Con số đó tất nhiên đã được nói dối, chắc chắn rằng
số thiệt hại có thể gấp đôi chưa kể người bị thương, bị bắt cóc, thất
lạc. Tiểu đoàn của tôi, đơn vị nuôi dưỡng tôi trong những ngày đầu tiên,
những thằng bạn mới ra trường của khóa 19 làm sao có thể sống sót với
quân số tử thương trên hai trăm! Tôi nghẹt thở như máu chảy lệch đường
tim. Gia đình binh sĩ càng ngày càng đông, tiếng khóc như dao cắt vào
thịt. Tôi bỏ đi ra phía cổng tiểu đoàn, nơi phòng trực; lính hậu cứ im
lặng buồn bã. Tôi nhìn trời chiều, lòng u ám như kéo giông.
Ra đến Biên Hòa, đêm vừa xuống, đèn tỉnh nhỏ mù mờ.
Tôi thấy khó khăn phải sống cho đêm sắp đến, làm gì bây giờ? Rượu, thôi
chỉ còn loại thuốc quên lãng đó cho những giờ khắc cóng đỏ này. Tôi đi
vào quán rượu ở Biên Hùng, lính Mỹ đông nghẹt, tôi cần không khí ồn ào
này. Gần mười hai ly bourbon sec cháy cổ được tống thật nhanh vào người.
Trong cơn say, nỗi buồn chín đỏ nằm riêng một góc tâm hồn không tan
biến. Không biết trở về nhà bằng cách nào, nhưng nửa đêm tôi tỉnh ngủ để
thấy nước mắt mình ướt má.
Bây giờ không phải là giấc mơ, nhưng là một thực
tại của tàn bạo. Tiểu đoàn tôi tử thương trên hai trăm người. Những xác
chết dần được đem về từ ngày 13 cho đến ngày 18, tôi nhìn rõ từng người,
những người tôi đã từng thấy họ sống, cười, lo âu, vui sướng. Tôi kéo
bao cao su để nhìn thấy Dũng, thằng bạn nhỏ từ ngày xa xưa ở Đà Nẵng,
lúc còn là sói con, sáng đánh bóng rổ, chiều đua xe đạp vòng quanh sân
trường. Tôi nhớ dáng dấp nhanh nhẹn của nó mỗi lần dẫn đội banh ra sân,
nụ cười tươi tắn hồn hậu. Tôi với nó không thân với nhau lắm, Dũng thuộc
loại học sinh được lòng thầy, sói con được lòng huynh trưởng. Tôi quá
tệ, ai cũng ghét. Nhưng khi gặp nó ở đây, trong thành phố xa lạ, tôi với
nó cần nhau biết mấy. Bây giờ nó nằm yên, nét mặt bình thản như trong
giấc ngủ, mắt khép hờ, da hơi tái. Như thế xác của Dũng được xem như còn
"tươi" nhất trong số những cái xác khác đem về cùng ngày. Kéo fermeture
che kín thân thể nó lại, người tôi vỡ toang đau đớn. Khu nghĩa trang
như một cái địa ngục, trời miền Nam bắt đầu vào mùa mưa, đất đỏ từ lối
đi vào đến nơi chứa xác lầy lội tưởng như có pha máu người. Thân nhân
người chết than khóc, lăn lộn trên lớp bùn non, áo sô trắng lấm đất đỏ
như dấy máu. Hơi đất, hơi người sống, người chết, mùi hương đèn lẫn lộn
ngây ngấy nồng nặc, choáng váng... Ngay đến những người lính ở trung đội
chung sự cũng phải rời rã... Bỏ người chết ở lại nghĩa trang, tôi đến
bệnh viện Cộng Hòa để tìm người bị thương vừa được mang về. Hải đây rồi,
người xanh dớt như lá non, thịt ở chỗ bị thương ủng thối nồng nặc. Tôi
ôm lấy nó, nước mắt chảy ra lúc nào không hay... Hải bật khóc thành từng
tiếng nhỏ, giọt nước mắt vì sống sót chen lẫn mất mát những người thân.
Bây giờ tôi mới biết thêm cảnh anh Ký khóa 17 trong những phút cuối
cùng của cuộc đời đã bình thản dốt cháy tất cả giấy tờ đặc lệnh truyền
tin. Anh Hợp bình tĩnh hút những hơi thuốc pipe cuối cùng trước khi tự
bắn vào đầu. Trung uý Kỳ, đại đội trưởng 71, tự mình chống trả với địch
trong cơn hấp hối, Đại uý Hải, tiểu đoàn phó, chửi vào mặt Việt cộng khi
chúng bảo đầu hàng, chết với chiếc combiné còn ở trong tay, ngồi tựa
vào gốc cao su ngang tàng và dũng mãnh... Người lính già của những trận
Lạng Sơn, Điện Biên Phủ thưở trước chết như hình ảnh của một anh hùng.
Tôi đi xuống khu ngoại thương của binh sĩ - Lưu Diễn - anh lính cao
không đầy thước rưỡi, người chỉ mang được ba qủa đạn 57 ly, hai chân bị
bắn nát dòi bò ra theo vết thương, đã bò bằng hai tay trong năm ngày với
đoạn đường hơn mười lăm cây số, đói khát và kiệt lực nhưng không ngã
lòng. Khi tôi đến, người anh chỉ là một xác ma, dấu vết của người sống
chỉ còn lại ở đôi mắt. Tôi chỉ biết im lặng cầm lấy bàn tay gầy guộc bám
đầy đất đỏ bùn non. Có cảm giác như đang nắm một cành củi mục. Tôi chạy
như con thoi giữa hai trục nghĩa trang và bệnh viện, người khô cứng
trong tận cùng của mệt nhọc và buồn phiền. Không thể nuốt một thức ăn
nào khác ngoài bánh ngọt, đưa muỗng cháo vào mồm, mùi thịt bò gây gấy
làm nhớ đến những xác chết sau bảy ngày chương sình nhầy nhụa, khi ấn
vào quan tài nước phọt lên có vòi, những xác chết khi được mang từ nhà
xác đi ra trông như cử động vì dòi trên thân thể bò lúc nhúc chen lẫn
nhau. Dù thương mến đến tột độ, người thân khi nhìn thấy xác của kẻ thân
yêu trong tình trạng như vậy chẳng có ai can đảm để đến gần. Đâu còn là
vóc dáng của người thương mến, chỉ là một tảng thịt đã rữa nát đầy dòi
bọ hôi thối đến kinh khiếp.
Đưa quan tài của Dũng lên máy bay, chào trước mộ
của Kỳ và Đỗ lần cuối, sau một tuần lăn lộn với người chết, người tôi
tan đi trong một cơn mê nồng nặc đầy hơi chết và lòng tràn giông bão.
Những xác chết ám ảnh tôi đến kỳ quái, ngay trong giấc ngủ, sự yên lành
cũng không có, tôi la hét, khóc lóc đập phá trong cơn mê. Và nỗi tỉnh
thì không còn nữa, rượu uống vào hoài hoài, chưa bao giờ thấy rượu ngon
và cần thiết đến thế — Một khỏang đời đã đổi tôi thành kẻ lạ rồi... Một
tên hung bạo, trí não căm hờn và thù hận. Tôi chết một phần người trong
tôi. Ôi! Tháng Sáu năm 1965, tôi ghê sợ biết chừng nào.
Tháng 6-1965. Đồng Xoài (Bình Long)
No comments:
Post a Comment