Những
buổi chiều từ Lộc Ninh trở về, tôi bay qua đồi Gió, qua đồi 69, những
ngọn đồi ở đông-nam An Lộc. Cũng những buổi chiều tháng 5 và tháng 6 như
thế nầy của hai năm tước, 1972, nơi đây những người bạn tiểu đoàn 6,
tiểu đoàn 3 pháo binh, Lữ đoàn I Nhảy Dù đào vội chiếc hố, khoét xâu
rãnh giao thông hào dưới cơn mưa đại pháo của Bắc quân. Cũng những buỗi
chiều muộn khi ngày sắp hết, ánh mặt trời hồng đỏ đã bị mờ dần bởi hơi
sương lam bốc lên từ dãy rừng cao su ngút ngàn xanh ngắt. Nơi đây, trên
dãy cao độ chập chùng trống trải này những Phạm Tường Tuấn, Phạm Kim
Bằng, Lộc “lì”, Vinh “con” của Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù bậm môi đến bật máu,
nhô chiếc nón sắt lên khỏi giao thông hào chờ đợi bóng đen của những T54
đang lố nhố, rì rầm dưới chân đồi sắp sửa tấn công. Hôm nay, trên chiến
địa điêu tàn đó chỉ còn vương vãi vài chiếc nón sắt, túi đeo lưng và
những mảnh xương trắng xám rơi rớt trên lớp đất đỏ màu máu. Dãy đồi nằm
lặng dưới bóng chiều trông oan khiên như nấm mồ vĩ đại. Tôi bay qua
chiến trường của hai năm trước, bay qua bầu Đồng Cỏ thấy xác chiếc
Chinook bị rớt ngày 4-6-72; bay qua Chơn Thành thấy lại chiếc trực thăng
chở Chuẩn Tướng Đức bị cháy nát chỉ còn trơ chong chóng nằm sát bờ lộ.
Những phi công trực thăng nghĩ gì khi từ trên không nhìn xuống những
thân tàu cháy xám, đống tro tàn của bộ máy, họ có tưởng đến những chiến
hữu đã vỡ tan cùng cát bụi, những phi công lâm nạn của mùa chiến trận 72
trên đường bay dọc con lộ tử thần nầy. Đi qua chiến địa quá khứ không
phải chỉ bùi ngùi vì chứng kiến dấu tích của binh lửa tang thương, nhưng
để biết rằng chiến tranh chưa hề chấm dứt, hòa bình chưa bao giờ có
thực, chỉ có chiến trận đổi vùng, chiến trường ngụy trang dấu mặt. Bay
qua đồi Gió, suối Tầu Ô, Tân Khai, Chơn Thành, qua các chốt của bộ đội,
qua các căn cứ hỏa lực của ta, qua thôn xóm vây bủa bởi giao thông hào
còn mùi đất mới để biết rõ một cách đau đớn và chua xót rằng, chiến trận
không bao giờ ngừng nghỉ trên quê hương tàn khốc này. Không có một giây
phút bình yên nào trên xứ sở tên gọi Việt Nam.
Tháng 5, tháng 6-74 đi qua, Phái đoàn Mặt Trận bỏ
họp vô hạn định, chiến trận bùng nổ không che dấu, phi trường Nha Trang,
Đà Nẵng, lần đầu tiên sau ngày Hiệp Định bị pháo kích. Phe Cộng sản vứt
bỏ chiếc mặt nạ “hòa bình” không ngần ngại. Đã đến lúc họ không còn cần
dấu mặt sau cái vỏ hòa bình; họ cần phải chạy đua với thời gian, chạy
đua với sự sáp vô ngày càng khít khao giữa Nga, Hoa quanh cái trục “Đế
Quốc Mỹ”. Cộng sản Bắc Việt phải tự cưú trước khi bị hai cái gọng kìm
này nghiền nát. Tháng 6 đi qua để bước vào tháng 7 với ngày 20-7, ngày
Cộng sản xem như thắng lợi vinh quang, ngày rực rỡ sau chiến công Điện
Biên, ngày đuổi hẳn thực dân Pháp thanh toán 100 năm nô lệ. Nhưng ngày
20 tháng 7 cũng là ngày di cư, ngày uất hận ngàn đời không nguôi ngoai,
ngày chia ly tan tác của khối dân miền Bắc đi về Nam để được sống tự do
20-7-1954 - đến nay đã hai mươi năm, khoảng thời gian ngút ngàn tưởng
chừng như giấc mơ, cuộc ra đi ngày nào nghĩ rằng sẽ trở lại trong thời
hạn tối thiểu, ai ngờ trở thành một dứt khoát quyết liệt, một chọn lựa
nghiêm trọng đành đoạn giữa tự do và kìm kẹp, giữa đời sống thênh thang
và lạnh lùng trong một hệ thống kiểm soát ngặt nghèo. Hai mươi năm qua
như ngọn lửa lớn đãi lọc tinh tuyền sự chọn lựa ban đầu đó, chẳng ai
trong khối người ra đi phải hối hận vì tất cả đã chọn đúng. Tôi biết
chắc như vậy. Nhưng tháng 7-74 trên báo chí đối lập khuynh tả, trong
những cuộc hội thảo của lực lượng đối lập tiến bộ yêu nuớc, của đám trí
thức Sài Gòn nhan nhản xuất hiện một loại luận cứ: “Chỉ vì Hiệp Định
Genève 1954 không được thi hành nên mới xảy ra chiến tranh trong hai
mươi năm qua và vì “mâu thuẫn” vẫn còn nên Hiệp Định Ba Lê 28-1-73 không
được thực hiện, Hòa Bình cho Việt Nam vì thế chưa có. Cuối cùng, chỉ
còn con đường hòa giải và hòa hợp dân tộc, con đưòng độc nhất để hoàn
thành hòa bình...”. Loại luận cứ này được coi như đỉnh chót của ý thức
tiến bộ của đám trí thức đối lập ở miền Nam. Song, tôi muốn hỏi những
người này những câu hỏi cụ thể: Tại sao không dừng lại xác định: Vì Hiệp
Định Ba Lê không được thi hành (Như đã dùng với Hiệp Định Genève) mà
chỉ lấy cớ miền Nam còn “mâu thuẫn”? Mâu thuẫn gì? Ai mâu thuẫn với ai?
Tại sao các anh không dám nói thẳng: Cũng chính bởi vì Hiệp Định Ba Lê
không được thi hành nên hòa bình chưa có và chính phe Cộng sản là phe
phá hoại nhiều nhất thâm độc nhất, có hệ thống nhất. Hai mươi năm chiến
tranh, hai năm “hòa bình” khốn nạn chưa làm cho đám người này thấy đủ,
biết được một sự thật. Sự thật rất đơn giản. Làm thế nào hòa giải được
người Cộng sản. Người Cộng sản mang quốc tịch Việt Nam!!!
Trận cầu quốc tế giữa hai đội Đông - Tây Đức, phe
cộng sản, phe không cộng sản, gặp nhau, bắt tay nhau, tranh tài trong
tinh thần hòa hợp, thân ái của môi trường thể thao. Nhưng làm sao có
đưọc cái cảnh này cùng Cộng sản Việt Nam? Vì anh ta sẽ gọi cầu thủ của
ta là “cầu thủ Ngụy”, của phe tư bản rẩy chết, tay sai của chính sách
thực dân mới Hoa Kỳ. Phe Cộng sản sẽ không bao giờ thỏa thuận để cho hòa
giải, gặp gỡ những cầu thủ “ giải phóng dân tộc, của cách mạng vô sản,
của giai cấp công nông ” với đám cầu thủ của “ Ngụy quyền ”, cầu thủ áp
bức nhân dân, cầu thủ ác ôn Mỹ Ngụy. Tôi không nói quá nhưng chỉ xác
định lại sự thật qua những kinh nghiệm quá não nề cùng ngưòi Cộng sản
Việt Nam.
Đến đây, những dòng cuối cùng của tập bút ký, tự
nhiên trong lòng bỗng rực sáng một niềm tin thanh thản. Quả tình tôi đã
có một thái độ quyết liệt thật đúng đắn với người Cộng sản. Tôi xác định
thái độ này chính thức, công khai mà không hề e sợ những dè bĩu, chụp
mũ: Muốn được thưởng công bởi chính quyền. Còn lâu, chính quyền, chính
phủ chỉ là những lực lượng nhất thời, tôi không chống Cộng để cho một cơ
cấu chính trị, một cơ quan quyền lực. Tôi chống Cộng vì ghê sợ cái
hướng đi hà khắc kìm kẹp vô nhân tính của chế độ đó. Giản dị và chính
xác như thế. Ngày 20-7, đọc lại một bài viết ngắn của anh Doãn Quốc Sỹ
nói về ngày uất hận thiên thu này, anh Sỹ nhắc lại trong “Một vài ký ức
hình nổi của giai đọan 20-7-54 - 20-7-72 (Báo Đời số 140): Hình ảnh đồng
bào khắp nơi vượt mọi gian lao để tới Hải Phòng được phổ biến sâu rộng
tại bất cứ nơi đâu còn gọi là đất Quốc gia, những hình ảnh đặt biệt sỉ
nhục một cách thậm tệ cho ông Hồ đăng tải trên các tạp chí lớn ở Âu
Châu: Đó là hình ảnh hàng ngàn người xuất hiện trên bãi bể Bùi Chu, hình
ảnh họ kéo lê chiếc bè lao nhào vào lớp sóng bạc đầu, hình ảnh họ chen
chúc trên chiếc bè mỏng manh, đàn bà đứng bế con, ống chân ngâm dưới
nước quên mỏi, phần trên rét run, đàn ông khom lưng cố chèo ra khơi cho
kịp những chuyến tàu đương thân ái đợi họ để rồi xã hết tốc lực ra khơi
xa hơn nữa để chuyển họ sang những tàu vận tải lớn hơn...”.
Và hình ảnh bi thiết, rực rỡ nhất của cuộc di cư thần thánh đã tụ lại trên điểm cao hoạt cảnh dưới đây:
- Xe lửa từ Hà Nội xuống đến Hải Dưong ngừng lại ở
ga Phú Thái, nơi đó cán bộ Cộng sản khám dân chúng, tha hồ dân chúng
văng tục, chửi rũa, đám cán bộ vẫn cười tươi ngọt ngào như không. Có bà
gần như khỏa thân từ trong phòng khám bước ra, có bà còn ra ngồi xuống
tiểu tiện rồi mới đứng dậy, bận quần áo đầy đủ, có bà xoay đủ một vòng,
nghều nghện hai bầu vú nuôi con rồi mới bận áo... Ôi! Những người đàn bà
Việt Nam cực kỳ thông minh và biết trọng nhân phẩm đó! Tất nhiên đám
cán bộ Cộng sản nam nữ vẫn luôn luôn giữ nụ cười nhã nhặn bình tĩnh.
Trên cái nền khỏa thân của các bà, nụ cười đó quả đã bị bóc trần đến
chất lõi máy móc vô nhân của nó. Hàng bao tấn giấy tờ của người trí thức
Quốc gia viết để chống đối Cộng sản không nặng bằng một đồng cân so với
cái cử chỉ vừa khôi hài vừa thâm trầm chua chát của hình ảnh cố ý kéo
dài cuộc khỏa thân của các bà...”.
Anh Sỹ đã cất cho tôi được gánh nặng ngàn cân vì
gần hai năm nay đi đâu tôi cũng thấy người Cộng sản... cười. Những nụ
cười tươi, rộng, rất vồn vã, rất nồng nghiệt, tràn ứ đầy khắp trên các
báo Quân Đội Nhân Dân, Quân Đội Giải Phóng, trên tạp chí “ Đường Đến
Vinh Quang của Nam Việt Nam...”. Đâu đâu cũng thấy người Cộng sản cười,
Võ Nguyên Giáp cười, Lê Duẫn cười, Phạm Văn Đồng cười, Song Hào cười,
Văn Tiến Dũng cười, Phạm Văn Bạch cười, Nguyễn Hữu Thọ cười, chiến sĩ “
tên lửa ” cười, đội làm cầu cười, người nữ chiến sĩ miền Nam cười, những
“ Người Con Tây Nguyên ” cười... Tất cả đều mở rộng miệng đến tối đa
kích thước, hàm răng tràn ra khỏi những ghè môi nhăn nhúm, choáng chật
cả khuôn mặt bị căng cứng, bị gấp nếp vì nụ cười quá khổ... Rồi tôi lại
phải “ tiếp thu ” thêm những nụ cười trên thực tế của Thiếu tá Trần Tín ở
Hà Nội, của Thượng tá Năm Tích ở Lộc Ninh, của Nguyễn An Giang ở bắc
sông Thạch Hãn... Những nụ cười như trong báo chí đó được lập lại đúng
cỡ, đúng điệu, tràn ngập khắp nơi khi người Cộng sản tiếp xúc cùng người
lạ. Một lần, hai lần,... Lần thứ một trăm, lần thứ một ngàn, nụ cười
tràn ứ đó gây nên một cảm giác kỳ lạ trong tôi. Cảm giác nửa nhờm tởm,
nửa bị đe dọa. Nụ cười vỡ như lửa lóe ra khi trái lựu đạn nổ, nụ cười
ghê ghê, vô nhân, vô nghĩa như con vượn, con dã nhân khi được kích
thích, vì được luyện tập. Tôi không nói quá lời, tôi không “ hạ ” đối
phương nhưng quả tình nụ cười đó suốt hai năm gây cho tôi câu hỏi: Có
phải chăng người Cộng sản có một “ chủ trương cười ”? Người Cộng sản đã
cười theo chỉ thị, theo công tác, theo tiêu chuẩn? Nếu không thì tại
sao, đâu đâu, ai ai cũng có một cách cười, một vẻ cười chung giống nhau
như thế? Sông Hào, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, những cá tính khác
biệt, những con ngưòi khác nhau về khả năng,tính chất, môi trường trong
một bức hình ở khóa hội thảo đều cùng có chung một nụ cười hả hê, thống
khoái rạng rỡ. Cho đây những nụ cười thật vì các ông ấy là tướng, là cán
bộ cao cấp được điểm Bác và Đảng... Nhưng rồi, sao đám nhân công nhà
máy dệt, đội làm cầu, cán bộ mậu dịch... Những người gầy còm, mắt trắng,
những kẻ tóc bạc mệt nhọc dầy như cỏ rối, trên nét nhăn, những người
nầy có gì để phải cười giống như Giáp, như Đồng?!!! Vậy chỉ có thể hiểu,
và chắc chắn như thế: Người Cộng sản đã được huấn luyện, kiểm soát và
thi đua cười theo một tiêu chuẩn nào đó về nụ cười. Họ phải tập cười
theo một mô thức được hoạch định bởi Đảng và nhà Nước. Vậy, trước nụ
cười đó còn gì xứng đáng và sít sao hơn là những thân thể tinh khôi, cao
quí phẩm hạnh của con người trần truồng toàn diện. Phải, chỉ có cái
thân thể nồng nhiệt tự do, thân thể ấm áp sức sống nhân bản của con
người cao quý mới gọi là ngọn triều lớn cuốn bay đi lớp nụ cười vô nhân
khô héo của người Cộng sản... Hiểu như thế. Và phải hiểu như thế.
Tôi nhớ buổi chiều ngày 18-2-1973 tại bờ bắc sông
Thạch Hãn, giữa bóng tối mờ mịt, khi tự xé chiếc áo phơi lồng ngực trần
để chỉ cho đám sĩ quan quốc tế cùng đám cán bộ Cộng sản biết so sánh thế
nào là “ sự thật ” về người tù Cộng sản bị “ tra tấn ” tại trại giam ở
Phú Quốc. Với sự thật của chính thân thể tôi. Nhưng tôi đã làm chưa đủ,
thật ra tôi phải làm như những người đàn bà cao quý nọ.
Trong những tháng 8, 9, 10 năm 1974 tại Sài Gòn có
phong trào chống tham nhũng tố đích danh Tổng Thống Thiệu bằng cáo trạng
sáu điểm; phong trào đòi Tự Do, Dân Chủ, đòi hỏi hủy bỏ sắc luật 16-69
và 007, những sắc luật kìm kẹp báo chí một cách chặt chẽ hà khắc. Cuộc
tranh đấu lên đến cao điểm: Đòi hỏi chính phủ Thiệu phải thực thị Hiệp
Định Ba Lê, thành lập Hội Đồng Hòa Giải gồm có ba thành phần và chấm dứt
ngay tiếng súng để cùng ngưòi Cộng sản hòa hợp và hòa giải trong tinh
thần dân tộc.... Phong trào tập trung được toàn thể những linh mục Công
giáo cấp tiến cánh tả như Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần,
Chân Tín... Những người của nhóm Đối Diện trước đây. Phía Phật giáo cũng
nhập cuộc trên một địa bàn khác với sự đồng ý của giáo hội Ấn Quang
tích cực yểm trợ cho Lực Lượng Hòa Giải, Chủ tịch là Vũ Văn Mẫu.
Bỏ đi sự có mặt của những người như các dân biểu
đối lập ngụy danh, những chính khách cấp tiến tiền chế, những lãnh tụ
tôn giáo tả khuynh có điều kiện, những đào kép cũ của những tuồng tích
héo úa, trong đó do thúc đẩy quyền lợi, với khí thế ma đầu, những hào
hùng cải lương... Những dòng viết sau đây tôi chỉ muốn nói đến cuộc nhập
trận tích cực của các vị linh mục. Trong tập thể linh mục nhập cuộc
cùng những phe khối của họ có thể chia ra làm hai thành phần rõ rệt. Thứ
nhất, là nhóm linh mục cấp tiến khuynh tả như Nguyễn Ngọc Lan, Chân
Tín, Trương Bá Cần cùng những ngưòi viết Đối Diện, Trình Bày như Nguyễn
Văn Trung, Thế Nguyên, Lý Chánh Trung... Và thành phần thứ hai gồm những
linh mục trước đây đã có một quá trình chống cộng như Nguyễn Viết Khai,
ông Cha rửa lễ cho Tổng Thống Diệm, người lập trường “Ngô Đình Khôi”
tại Phan Thiết, thủ lãnh chống Cộng của Khu Tư sau 1945, Đặc Sứ lưu động
của Tổng Thống Diệm liên lạc các trại định cư của những người Nghệ Tĩnh
Bình, cũng là tiền đồn chống Cộng của giai đoạn 54... Và Cha Thanh cũng
là lý thuyết gia của Phong Trào Nhân Vị ở Vĩnh Long trước đây, một linh
mục thuộc Dòng Chúa Cứu Thế nổi tiếng về hùng biện và tinh thần chống
Cộng sản của người dân gốc Quảng Trị.
Mục đích của phong trào thoạt tiên rất chính đáng,
vì đó cũng là cơ hội cuối cùng để miền Nam kiện toàn lực lượng đối lập
trong thế tranh đấu đối với Cộng sản lẫn phe Quốc gia, hình thành một
lực lượng hòa giải trong giai đoạn sắp tới khi Hiệp Định Ba Lê được thi
hành theo từng chi tiết nhỏ. Thái độ và tinh thần chung của Cha Trần Hữu
Thanh, chủ tịch phong trào là thái độ tích cực đấu tranh với tinh thần
cấp tiến, thiết tha đến tương lai của miền Nam, một tương lai rất gần
phải chung sống cùng người Cộng sản. Phải nhìn nhận rằng Cha Thanh đã
dựng lên một phong trào rất đứng đắn và cấp thiết, miền Nam sở dĩ tồi tệ
quá mức như hiện nay với nạn lạm phút đứng nhì của thế giới (sau Chí
Lợi) chính là do tác dụng phá hoại tích cực của tham nhũng. Tham nhũng
không chỉ có trong một vài động tác đầu cơ, hối lộ của giới chức chỉ huy
hành chánh cao cấp, nhưng tham nhũng là một đặc thù của sinh hoạt miền
Nam, tham nhũng bao trùm lên tất cả mọi dịch vụ giữa nhà cầm quyền và
dân chúng, giữa những cán bộ hành chánh, quân sự với đám thừa hành, giữa
giới chức lãnh đạo và toàn thể mọi đối tượng tiếp xúc. Thật là bỉ ổi và
ghê tởm khi bên cạnh cảnh đe dọa của cuộc chiến (chưa hề dứt) với đám
dân chúng lầm than tan tác, có những sự kiện tham nhũng bỉ ổi tàn nhẫn
như vụ buôn lậu có xe còi hụ dẫn đầu bị bắt ở Long An, những dịch vụ
buôn gạo, xăng cho Cộng sản được điều động bởi những tỉnh trưởng, sư
đoàn trưởng với giao kèo, chia chác đến lạnh người. Khi một chức trưởng
ty cảnh sát quận 5 ở Chợ Lớn được”mua” với giá trên một trăm triệu thì
“tính tham nhũng” của chế độ đó đã đi đến mức siêu đẳng tồi tệ. Cha
Thanh đã dựng lên một phong trào sinh tử vì không thể nào sống với người
Cộng sản ( sẽ nói rõ lại tính chất của những người nầy sau ) khi còn
tập đoàn lãnh đạo ung thối khiếp đảm như thế, cộng thêm cơ cấu dân cử
gồm đa số dân biểu tay ngang, khí phách và khả năng tại nghị trường chỉ
là thái độ quỵ lụy khiếp sợ người cầm quyền hành pháp. Phong trào đã lên
thật mạnh và đáp ứng được nỗi mơ ước đau đớn của toàn khối dân chúng
đang lăn xuống cuối dốc đói khổ.
Nhưng phong trào đã không phải chỉ ngừng ở phạm vi
chống tham nhũng thuần túy như danh xưng, cũng trái ngược luôn với lời
của linh mục Thanh nói ở Xóm Mới hôm 6 tháng 10... “ Chúng tôi không đòi
lật đổ Tổng Thống Thiệu, ông Thiệu muốn ngồi thêm năm, mười năm nữa
cũng được, nhưng cần nhất là ông Thiệu phải quyết liệt bỏ tham nhũng vì
ba, bốn tháng nữa là Việt Cộng vào đây ở với chúng ta, mà với tình trạng
tham nhũng thối nát thế này thì chúng ta “lúa rồi”... Lời nói của Cha
Thanh, hướng đi của phong trào, mục tiêu của phong trào lần lần có những
xa cách, nếu không nói là trái ngược nhau. Mà sau hơn một tháng bùng
nổ, phong trào đã đi đến điểm cao “ vận động trưng cầu dân ý về việc bất
tín nhiệm Thổng Thống Thiệu hay không...”. Mục tiêu chót đã không dấu
diếm. Để chuẩn bị thế hòa giải sống chung với người Cộng sản. Tôi dừng
lại ở đây để trở lại vấn đề ban đầu: Có thể hòa giải hay không cùng
người Cộng sản Việt Nam.
Phải, không thể nghi ngờ thiện chí và lòng tha
thiết muốn hướng dẫn dân chúng vào một phong trào sinh tử để chuẩn bị
thế nhân dân tranh đấu với đối phương, một kẻ quỷ quyệt tinh vi, vô cùng
thâm độc trong việc khuynh đảo, gây hỗn loạn, cướp chính quyền. Nhưng
hướng tấn công chính của phong trào ( Tổng Thống Thiệu ) cùng mục tiêu
tối hậu ( Hòa giải cùng người Cộng sản ) đã gây trong tôi những công phá
mạnh mẽ bởi mối phát hiện nghi ngờ: Phong trào hay nhóm linh mục lãnh
đạo hay cụ thể hơn là cha Thanh chỉ là những lực lượng dọn đường để sống
chung cùng người Cộng sản. Tiến trình được điều động bởi một áp lực
tinh vi ghê gớm. Sức công phá gây đến nỗi não nề khi theo dõi các cuộc
biểu tình ( to lớn và quan trọng nhất ), như cuộc biểu tình ngày
10-10-74 tại Sài Gòn. Nhìn thấy tận mắt một lớp đào kép cũ diễn trò vui
trên đau đớn và hy vọng cuối cùng của nhân dân. Phong trào phải chăng đã
xử dụng nhân dân như là một con ngựa chiến để đi đến đấu trường. Cảm
giác não nề cũng không phải vì thấy phong trào chuẩn bị cho “ thế đứng
chung với người Cộng sản ”. Người lãnh đạo quần chúng hơn ai hết có
trách nhiệm hướng dẫn, báo động, chuẩn bị cho nhân dân những tình huống
mới; huống gì những tình huống khắt khe bắt buộc sẽ phải xẩy đến. Nhưng
là cảm giác gây nên bởi tinh thần gọi là cấp tiến “ Có thể sống chung
được cùng người Cộng sản ” của những người đã có kinh nghiệm máu với
cộng sản. Tôi khai triển tiếp vấn đề này.
Trong cuộc viếng thăm Á Châu của Đức Giáo Hoàng
Paul VI; lần viếng thăm Á Châu đầu tiên của một vị Giáo Hoàng Hội Thánh
Công Giáo La Mã. Hội Thánh có một quá trình chống cộng tích cực, hữu
hiệu nhất. Đức Thánh Cha đã không ghé thăm Đài Loan và Việt Nam nơi có
tập thể giáo dân đông đảo với một hoàn cảnh bi thiết, nơi đất nưóc bị
tàn phá khốc liệt bởi chiến tranh. Một xung đột hệ quả từ những tư tưởng
chính trị đối nghịch Tây phương, trong đó Giáo Hội La Mã mặc nhiên có
ảnh hưởng lớn. Ngài không vào hai nơi này để chứng tỏ tinh thần mới của
Giáo Hội, khai phóng từ đời cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, sau Công Đồng
Vaticano II, Công Đồng mở màn cho kỷ nguyên tiến bộ canh tân và hòa
giải. Người Cộng sản là một trong những đối tượng lớn của cuộc hòa giải
vĩ đại này. Vì “ chỉ sau hơn năm mươi năm, chế độ Cộng sản đã chi phối
và tác động lên trên 1500 triệu của toàn cầu, trong khi đó Giáo Hội Công
Giáo sau gần 2000 năm truyền đạo cũng chỉ mới có 613 triệu tín đồ” (
Báo Đối Diện ). Thế nên vấn đề hòa giải với người Cộng sản không chỉ
trong phạm vi Thần học, Triết học mà còn là một hướng chính trị chiến
lược lớn của Giáo Hội. Dưới ảnh hưởng bởi ý hướng mới nầy nhóm linh mục
trẻ cấp tiến, xuất phát từ các đại học Âu Tây muốn đẩy mạnh cường độ
hiện thực hơn với môi trưòng “ chiến tranh Việt Nam ”; trong đó kẻ thù
gớm ghiếc nhất không phải là Cộng sản mà là Thực Dân, Đế quốc Mỹ cùng
chính quyền tay sai, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, một lực lượng phản
động, một ngụy quyền làm cục đá chận đường, vật ngăn cản không để những
người cấp tiến khuynh tả có cơ hội “ đối diện, hòa giải ” cùng người anh
em Cộng sản trong tinh thần dân tộc!! Thái độ này không lạ, đó là ý
hướng được khai triển từ lâu với J.P. Sartre, Bertrand Russell những
người “ lậm ” nặng bởi mặc cảm trí thức bất lực, bất lực để tham dự cùng
đời sống, bất lực để giải thích đời sống. Mặc cảm nhỏ bé, có tội trước
Cộng Sản, vô dụng đối với Tư Bản. Những sản phẩm chính cống của hệ thống
triết học Tây Phương. Mà họ chính là những người mang vác cồng kềnh mệt
mỏi trên vai cùng với tất cả nỗi vô ích canh cánh đè nặng tinh thần.
Thế nên, tôi không nói nhiều đến nhóm linh mục trên trong bài viết này
vì hiểu rằng đây là thái độ độc nhất của họ. Họ không thể thỏa hiệp được
với khối siêu quyền lực đã chi phối, nuôi dưỡng và xây dựng lên họ, vì
kiến thức, mặc cảm và vị thế cao quý đầy đặc quyền mà họ thụ hưởng được
cũng là hệ quả của một xã hội tư bản thoái hoá. Trở lại với nhóm linh
mục hữu khuynh, những ngưòi có số tuổi trên dưới năm mươi, có những kinh
nghiệm cụ thể sống chết với người Cộng sản. Bỗng nhiên trong một sớm
một chiều. Họ xoay một vòng lớn và: “ Xét về vấn đề Tổ Quốc thì chúng ta
phải thực tâm mà thú nhận rằng phía Bắc Việt họ đã chiến đấu vì Tổ Quốc
mà chúng ta chiến đấu vì đô-la, vì địa vị...”. Linh mục Khai - Đối Diện
21- nên tóm lại:
-Thứ nhất: Đừng quá sợ sệt, trốn chạy và thù ghét Cộng sản như lâu nay.
-Thứ hai: Người Công giáo phải là một chiến sĩ Hòa Bình, nhưng luôn “ đề cao cảnh giác...”
- Thứ ba: Phải biết đối thoại ( với người Cộng sản ) trên căn bản tự do, công lý, chân lý.
- Thứ tư: Phải xây dựng một Đức Tin sáng suốt để có đủ điều kiện sống chung với Cộng sản ( nếu cần ) và thu phục được họ.
- Thứ năm: Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối Giáo Hội để có thể “ không còn cần thắng cộng sản bằng B52 của Mỹ...”
Những điều của linh mục Khai viết trong tháng 2-71
bây giờ đang được phong trào quảng diễn lại ở Xóm Mới, Chí Hòa, Hốc Môn
và hiện thực hơn bằng cách yêu cầu Tổng Thống Thiệu từ chức để phong
trào đẩy mạnh thế nhân dân vào cuộc chiến đấu tranh với người Cộng sản
trong tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc. Những điều của cha Khai nói
gây trong lòng tôi nhiều xao động và nẩy sinh ra nhiều câu hỏi. Hỏi để
trước tiên giải thích cho hành động của chính mình và sau đến tìm hiểu
công việc, tinh thần của ngưòi khác. Những vấn đề cụ thể với những câu
hỏi như sau đây:
- Chúng ta có thể hòa giải cùng người Cộng sản Việt
Nam không? Tôi trả lời dứt khoát: Không được. Để giải thích khẳng định
nầy, tôi lần lượt đi qua từng yếu tố. Trước tiên, chúng tôi những người
trẻ, trên dưới ba mươi tuổi không hề có một mặc cảm, một não trạng ( chữ
của cha Khai ) nặng nề đối với người Cộng sản: Nghĩa là chúng tôi không
có thiên kiến sợ, chạy trốn, thù hận, đánh đuổi, tiêu diệt đến cùng
người Cộng sản. Cộng sản đối với chúng tôi trên lý thuyết là một hệ
thống tư tưỏng có tính “ thực dụng ” để giải thích và điều động xã hội
theo ý niệm công bằng và hợp lý. Chúng tôi không “ hữu thần ” quá độ đến
nỗi sợ hãi Cộng sản khống chế tiêu hủy Thượng Đế hay tôn giáo của mình.
Chúng tôi không đến đỗi “ nỗi loạn, vô chính phủ ” nên sợ hãi chống đối
với một cơ cấu quyền lực chính trị tổ chức chặt chẽ với những định chế
khắc khe. Trên phương diện tư tưởng chúng tôi có quan niệm Cộng sản
trước hay sau cũng chỉ là hệ thống tư tưởng với khuynh hướng tiến bộ xã
hội có thể áp dụng cho một vài nơi, một vài hoàn cảnh xã hội nào đó để
hình thành một tình trạng bình đẳng tương đối, chỉ là những tương đối so
với những bất công trầm trọng của chế độ chính trị trước đó..” Riêng
tại quê hương Việt Nam, nơi đã có một tinh thần tổng hợp tuyệt vời Nho -
Phật - Lão thấm sâu vào mạch sống dân tộc, tạo nên một sức mạnh dẻo
dai, bền bĩ đối kháng với mọi công phá, từ ngoài như ngoại xâm, từ trong
như tầng lớp lãnh đạo suy đồi, để luôn tồn tại vững chắc thầm lặng.
Thực dân Pháp đến và cũng đi sau 100 năm, thực dân mới kiểu Mỹ đến và
cũng ra đi và chắc chắn cũng sẽ bị tiêu vong ảnh hưởng. Tóm lại chúng
tôi không bị ảnh hưỏng bởi một thần quyền hay một thế quyền nên chống
lại người Cộng sản. Trên bình diện tư tưởng, chúng tôi chỉ vì không chịu
được tư tưởng độc tôn yêu nước và độc tôn cách mạng xã hội của người
Cộng sản. Với cơ cấu làng, xã của dân tộc Việt, với tinh thần tổng hợp
Tam Giáo, với cốt tủy “ Nhân chủ và Dân chủ ” của người Việt, chúng tôi
không thể chấp nhận chiếc mũ Cộng sản độc tôn phát sinh từ trời Tây.
Cũng chỉ là một sản phẩm của Âu Tây tư bản.
Chúng tôi cũng không chống Cộng vì “ khủng Cộng ” (
chữ của Cha Khai ), vì sợ hãi, tê liệt trươc người Cộng sản. Mười năm
chiến tranh (63-73) nặng nhất của hai ý hệ, chúng tôi là tầng lớp gánh
chịu đau đớn nhất và cụ thể nhất. Chúng tôi cũng không như Cha Khai, Cha
Quỳnh, Cha Nguyễn Lạc Hóa phải nhờ Tây giết Cộng ( Lẽ tất nhên chúng
tôi xài súng của Mỹ cũng như người Cộng sản dùng súng AK ) mà đã chiến
đấu bằng chính đời sống mình, còng lưng xuống mang một chiếc ba-lô, tay
cắp súng, tay cầm thêm thùng đạn bấm đôi chân trên rừng núi bạt ngàn của
miền Nam để đánh Cộng sản. Trong mười năm dài và chắc sẽ còn tiếp tục
nếu Cộng sản nhất định đi bước chót của “ Di chúc Hồ Chủ Tịch...”
Cũng thật là xấu hổ và vô liêm sỉ khi bảo rằng
chúng tôi chiến đấu vì quyền lợi. Quyền lợi nào ở đồng lương chỉ sống đủ
nửa tháng, dăm bộ quần áo lính chỉ để mặc đủ trong chuỗi ngày dài của
thời gian mười năm chiến trận. Chúng tôi cũng chưa hề được đãi ngộ (
tinh thần và vật chất ) như ngang với đám chiến sĩ, cán bộ của đối
phương, huống gì bảo rằng chúng tôi có những “ quyền lợi ” để có thể trở
thành đối tượng của phong trào chống tham nhũng. Đành rằng trong nhà
binh ( và cũng là một môi trường chính ) tham nhũng hoành hành và tác
hại gớm ghiếc. Nhưng thiểu số thụ hưởng đó quá nhỏ bé so với tập thể bao
la những người chỉ mơ ước được một giấc ngủ ngắn và bữa cơm không pha
mùi thuốc súng cùng máu nóng... Và quả tình thật đốn mạt và hèn hạ khi
gọi chúng tôi là: “ Những kẻ hiếu chiến trong cuộc chiến tranh này.
Những tên diều hâu thực thụ. Thứ nhiên liệu tinh hảo và rẻ mạt ném vào
lò đúc kim cương. Những kẻ đánh thuê, và khi đã là lính đánh thuê bao
giờ cũng được trả một giá cao vì ý thức rõ bản chất của điều họ muốn và
điều họ làm...” - Nguyễn Tử Lộc báo Đối Diện số 20 -. Ai thuê và với giá
nào? Phải chăng là người Mỹ với giá tiền lương một sĩ quan cấp úy chưa
đủ tiền mua gạo cho gia đình?! Đừng nói như trên vì nói thế là vô ân, là
kẻ ngụy trí thức, là kẻ bạo dâm liêm sỉ. Hắn ta chỉ có thể viết như thế
vì đang ở trong một thành phố của miền Nam. Miền đất bảo vệ bởi chính
máu của chúng tôi.
Đã giải thích rõ các yếu tố về mình, coi như đã soi
sáng một phần câu hỏi: Có thể hòa giải với người Cộng sản Việt Nam được
không? Chúng tôi cần khẳng định lại, vì ngay ở xưng danh, trong khi
chúng tôi gọi họ là những người Cộng sản Việt Nam, những người Việt theo
chủ nghĩa Cộng sản; trái lại họ gọi chúng tôi là “ Ngụy quân ”. Họ dành
riêng do mình quyền và bổn phận phải làm “ Cách mạng, dân tộc, giải
phóng miền Nam...”. Chỉ có họ mới là người Việt Nam yêu nước; người Hà
Nội, Thanh Hóa, ở các xã giải phóng mới là nhân dân yêu nước, tiến bộ,
yêu hòa bình còn nhân dân ở An Lộc, Quảng Trị, ở Tân Mai ( Biên Hòa ), ở
Cai Lậy, Song Phú là nhân dân “ Ngụy ” không được quyền sống mà cần
phải giết bỏ và tiêu hủy.
Không thể hòa giải cùng người Cộng sản Việt Nam
cũng bởi vì họ là người Cộng sản Việt Nam mà không là Cộng sản Đức, Ý,
Nhật, Pháp. Cho dù là Cộng sản Nga. Tổng Bí Thư Đảng như Khrouschev,
Brezhnev cũng chỉ là những giới chức hành chánh cao cấp hành nghề chỉ
huy tương tự như thủ tướng W. Brand, Tổng Thống Kennedy; Cộng sản ở Nga
chỉ là một chính sách, một đường lối để canh tân và hiện đại hóa một
nước với lãnh thỗ quá mênh mông, sắc dân đa tạp. Và có là Trung Hoa Đỏ
đi nữa Mao Trạch Đông vẫn là tổng hợp của Tần Thủy Hoàng, Khổng Tử và
một chút của Staline. Nhưng Cộng sản Việt Nam là một tổng hợp tuyệt hảo
của niềm tin cách mạng vô sản, của giải phóng dân tộc, là khối kim cương
của tất thắng, là toàn hảo tận thiện, mỹ không kẽ nứt. Năm 1930 ở Hoa
Lục Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch vẫn chỉ là hai người Trung Quốc
yêu nước có đường lối cải cách xã hội, chỉ huy quốc gia khác nhau, nhưng
“ hòa giải ” trong một thế Quốc - Cộng chặt chẽ. Năm 1930 chủ tịch
Staline trong chiến tuyến chống phát-xít vẫn luôn muốn bắt tay với ngưòi
bạn Mỹ tốt đẹp. Thế nhưng năm 1930 ở Việt Nam đã có Sô Viết Nghệ-Tỉnh,
Sô Viết Quảng Ngãi, Cộng sản không chỉ đánh Tây cứu nước nhưng còn chặt
đầu công giáo ở Trà Kiệu, Thăng Bình ( Tam Kỳ, Quảng Tín bây giờ, Quảng
Nam lúc đó ), nửa đêm đốt đuốc diệt Đại Việt ở Quảng Ngãi, phục kích
Phục Quốc Quân Việt Nam ở Tàu về, v.v... Cộng sản Việt Nam đã tạo dựng
truyền thống tin truyền cho chủ nghĩa từ thuở phôi thai, từ ngày nhập
cuộc. Một thủ đô văn hóa dài lâu như Hà Nội đã bị đánh vỡ hẳn yếu tính
thanh nhã cao quý của một chốn xưa đầm thắm, hóa thân thành một thành
phố lạnh lùng quái dị, bị vô tính hóa đến độ tàn nhẫn phi nhân, tràn
ngập đầy đường phố, trong trụ sở, nơi nhà giam một đám cán bộ nghiêm
nghị, cẩn mật với tiếng nói âm thanh vùng Nghệ Tĩnh. Tôi không thấy,
không nghe được hình ảnh, tiếng lời trong sáng dịu dàng của những người
Hà Nội như trong ý niệm, trong trí tưởng. Ở Hà Nội tôi chỉ gặp được một
số cán bộ gốc Nghệ Tĩnh Bình nếu không cũng là Bình Trị Thiên hay Nam
Tín Ngãi. Và ở địa điểm trao trả Bạc Liêu, Rạch Giá trong ruộng đồng
trái tim miền Nam những người kháng chiến Nam bộ hào hùng đánh Tây thuở
trước cũng hoàn toàn vắng bóng. Cụ thể hơn hết, hai năm ở bàn hội nghị,
Hoàng Anh Tuấn, Võ Đông Giang, Bùi Thiệp, Trần Văn Vầy cũng chỉ là những
người Cộng sản khu V (Nam-Ngãi-Bình-Phú: Liên khu V của cộng sản từ
thời 1945 ). Phải chăng đây là những người từ đầu của Mặt Trận ở những
năm 59, 60 khi mới thành lập hay là đào kép chính xuất hiện diễn màn
cuối khi những người như Năm Quốc Đảng, Hai Chủ Tịch xe ngựa, Tư Thắng
những người Cộng sản kháng chiến miền Nam đã lót đường dưới bom đạn của
chiến tranh hoặc vào quên lãng. Vậy hòa giải sao được với những người
Cộng sản nay khi trí não họ chỉ có một ý niệm, khi ngôn ngữ chỉ có một
lý luận, khi hành động đã là một động tác phản xạ có điều kiện. Họ có
muốn ta hòa giải cùng họ không? Chắc chắn là không. Vậy ta hòa giải với
ai và như thế nào?? Tôi xin trao lại phần trả lời cho những người hòa
giải. Nói thêm một điều: Nếu người Cộng sản chịu hòa giải trong một
chiến thuật đoản kỳ nào đó, chắc chắn rằng họ cũng không ngồi chung
chiếu với “ lãnh tụ ” Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu chứ đừng nói đám đào
kép cải lương mới nổi từ đồng lầy chính trị miền Nam.
Qua phần câu hỏi thứ hai, tôi muốn trình bày một
tâm trạng não nề khi thấy các linh mục hữu khuynh đổi thái độ... “ Phải
đánh thằng quỉ lớn trước, đánh thằng quỉ nhỏ sau ”, lời Cha Thanh. Thằng
quỉ lớn là tham nhũng, là chính phủ của Tổng Thống Thiệu, là người Mỹ
với chính sách thực dân kiểu mới. Tùy theo mỗi cách đặt vấn đề trên mục
đích của mỗi phe nhóm và thằng quỉ nhỏ là Cộng sản. Một thằng “ quỉ nhỏ ”
sẵn sàng đối thoại, có thể đối thoại và nên đối thoại! Tại sao như vậy
được? Ông Thiệu và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hiện tại đâu có phải
một sớm một chiều bỗng dưng mà có. Chiến tranh hiện tại cũng không phải
vì “ không thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Ba Lê ” cũng không phải vì “
Người Mỹ vẫn còn dính líu vào miền Nam Việt Nam để thực hiện chính sách
Thực Dân Mới ” mà có. Ông Thiệu, ông Khiêm, tình trạng tham nhũng bất
công thối nát, chiến tranh hôm nay chỉ là hệ quả tất nhiên của các giai
đoạn 45-54, 54-63, 63-73. Là hệ quả của các lực lượng Quốc gia không
chịu tập trung và hoạch định hoạt động theo đúng hướng đi chung của lịch
sử, dân tộc và thế giới; cũng như sau khi các lực lượng tôn giáo nhất
quyết tựa vào phe cầm quyền để củng cố và phát triển giáo quyền ( che
dấu mặc cảm đã cộng tác với những người khống chế dân tộc ). Đó cũng là
hệ quả của lần “ sẩy tay ” trầm trọng nhất khi miền Nam đánh mất cơ hội
tốt đẹp, một hoàn cảnh thuận tiện (54-63) kiện toàn miền Nam, để có đủ
khả năng và lực lượng cân bằng, hiệp thương cùng miền Bắc. Để rồi sau đó
lại mất luôn khí thế cùng thời gian sau năm 1963 trong những sa đọa
giành giật, cấu xé và phân hóa thô thiển vì quyền lợi cá nhân, rơi vào
hố thảm bại cả một phong trào nhân dân năm 1966. Và tình hình hiện tại
với ông Thiệu chỉ là ngọn cuối của một cơn cuồng phong thổi tàn khốc qua
quê hương khốn khổ. Có ai ngăn chặn một luồng gió ở cuối đưòng để đề
phòng một cơn bão? Có ai chặt đi một ngọn cây để hủy diệt những hư thối
từ gốc rễ?! Cha Thanh, Cha Hoàng Quỳnh, Cha Nguyễn Viết Khai chắc không
thể bảo rằng đã vắng mặt ở các giai đoạn kể trên. Các Cha đã đứng vào
đâu trong đoạn thời gian đằng đẵng hiểm nghèo đó? Đã làm gì và làm được
gì? Phải chăng các Cha đã tựa vào thế của Tổng Thống Diệm, đã dưạ vào
thế của Chủ Tịch Hành Pháp Nguyễn Cao Kỳ và gần đây, chắc cũng hơn một
lần các Cha thỏa hiệp với ông Thiệu. Và các Cha đã làm gì được cho nhân
dân qua những thỏa hiệp quyền lực đó? Năm 1974, phải chăng các thế lực
đó không còn là nơi nương tựa chắc chắn nên các Cha phá bỏ. Thủ đọan
chính trị cho phép làm mọi chuyện nhưng nỗi khốn cùng của nhân dân không
cho phép bất kỳ ai đem hy vọng cuối cùng của họ vào một cuộc trả giá.
Giả sử rằng trong giai đọan sau 1954, các ông Dương
Văn Minh, Vũ Văn Mẫu dùng khả năng và ý thức trọng trách của mình ( như
bây giờ đang khai triển ) đối với Quốc gia và nhân dân, đặt vấn đề
thẳng thắng cùng ông Diệm để cố Tổng Thống Diệm hữu hiệu hóa guồng máy
chính quyền, quân đội, kiện toàn cơ cấu lãnh đạo Quốc gia, chấp nhận đối
thoại với Cộng sản. Giả sử, Cha Thanh, Cha Khai gần gũi, thường xuyên
với Đức Cha Thục, Tổng Thống Diệm, dùng uy tín và thành tâm của mình để
ngăn chận những sai lầm chủ quan của ông Diệm và nhất là dùng “ Đức tin
vào Chúa để sẵn sàng đối thoại với người anh em không tín ngưỡng...” và “
Để không những yêu mến thân nhân và hãy ghét thù địch mà phải mến yêu
thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ anh em... (MT 5, 53, 45).
Giả sử rằng các ông Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín đừng di
cư vô Nam tiếp tục ở cùng người cộng sản Hà Nội để sau khi đi Pháp học (
Do sự điều động của Giáo Hội, của học bổng chính phủ Pháp thì phải
chăng cũng là một “ nhánh ” của tư bản...), trở về Bắc đòi hỏi “ Canh
Tân và Hòa Giải ”, và nhận định ngay từ giai đoạn đó (giai đọan sau 54):
“ Từ một thế kỷ nay Giáo hội đã thông qua chế độ tư bản... Ít phù hợp
với luân lý các Tiên Tri và Tin Mừng...” - Báo Đối Diện
Nhưng, tất cả chỉ là giả thuyết vì mọi người đã ùa
vào miền Nam để “ Tìm Tự Do ”, đã dựng nên một mặt trận chống Cộng khốc
liệt và dứt khoát, đã đẩy nhân dân vào trong hai thế đối nghịch sống
chết và đẩy đưa đất nước dần vào cuộc chiến tan vỡ. Cuối cùng, đoạn cuối
này chúng tôi gánh hết, không quyền ta thán, không ý kiến, không phẫn
nộ trong mười năm dài. Mười năm ê chề của màn kịch “ chống Cộng ” nửa
vời, mười năm đau đớn của hệ luận “ tìm Tự Do ” nơi miền Nam. Chiến
tranh toàn diện là “ cái đuôi ” của “ cách mạng 63 ”, của vận động hòa
bình 64-66, mà tất cả đã trôi đi như một thứ bèo tan tác trong đại dương
cuồng nộ bi thảm. Tất cả cũng chỉ là giả thuyết và đôi khi cũng là
những phản đề thô bạo đáng kinh ngạc, vì đã có những tố cáo trong quá
khứ: “ Đến nỗi Linh Mục Trần Hữu Thanh còn dùng cả thần học lý luận ”(?)
để biện minh loanh quanh cho việc tra tấn ( của Chính Phủ VNCH ) trên
các báo Công Giáo như Sacredo,Thẳng Tiến, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp - Lý
Chánh Trung - Đối Diện số 19.. Như vậy có nghĩa lý gì? Các người đã bày
nên canh bạc máu, tham dự chán chê xong đứng dậy phủi tay. Ông Thiệu đâu
có xa lạ với các vị trong cuộc chơi tàn bạo đau đớn đó. Bây giờ phải
chăng các người bày trò chơi mới với một số đào kép khán giả mỏi mòn.
Cuối cùng, chỉ là chúng tôi, những người chống Cộng
cuối cùng và cay đắng, chống Cộng vì không thể là Cộng sản, vì đã ở một
phía đối địch với Cộng sản lập nên từ những đám tiền bối cực đoan bất
lực, một đám đàn anh xoay rất lẹ và nhạy cảm đến độ phi nhân. Hai mươi
năm của cuộc đấu tranh chống Cộng đến đây phải tạm dừng sao? Tôi lật
đống ảnh của ngày xưa... Trên bãi bể Trà Lý, đoàn người tan vỡ xao xác,
mắt lạc thần và môi tái xanh vì giá rét đứng ngâm mình trong nước đón
tàu đi Nam. Trên đại dương mênh mông của vùng biển Bắc phần, chiếc mảng
nhỏ gồm những thân cây tre ghép lại, nhóm dân áo đen rách gồm cả đàn bà
và con trẻ ra sức chèo trong đêm về hướng đông, hướng mặt trời đợi ngày
tới gặp được đoàn tàu đi Nam. Đi về Nam. Tìm Tự Do. Tất cả là thực tế
hiển hiện đầy nhiệm mầu cao quý. Tôi đã đi đúng đường cùng lớp người rực
rỡ cao cả của ngày xưa đó. Tôi đã đi đúng đường và viết những giòng chữ
xứng đáng để ca ngợi Tự Do.
Miền Nam Việt Nam, Tháng 10-1974
No comments:
Post a Comment