Chúng tôi đến Huế từ tháng Chín,trời còn nóng như đang mùa hè. Đóng quân ở thôn Nguyệt Biều, bên cạnh sông Hương trông sang chùa Linh Mụ. Bao nhiêu lâu tôi không về lại Huế, từ một tuổi nhỏ bỏ đi xa nay trở về như khách lạ. Làng thật đẹp, cây im mát, con đường đất nhỏ dẫn xuống một bờ sông nước trong ngăn ngắt, tôi căng chiếc võng ngủ dưới tàn cây, đêm xanh xao ánh trăng, cô gái da trắng mát tự nhiên chao đôi thùng trên giòng nước long lanh... Bên kia sông, chùa Linh Mụ đổ hồi chuông, âm thanh trôi chảy trên sóng nước. Và sâu đêm khuya im lặng, sóng vỗ thật nhỏ, khẽ đập vào bờ lách tách như tiếng sông đang thở... Tôi tưởng ra một thiên nhiên đang nở dài im lặng. Trong những đêm khuya đẹp đẽ này, tôi thường mượn một chiếc thuyền, chỉ đủ cho một người ngồi bơi lang thang trên dòng sông để hiểu tại sao người Huế tạo ra những điệu hò buồn bã một hơi thở tàn...
Thuở xưa tôi có thằng bạn, Phan Duy Nhân, loại
người hừng hực tranh đấu, nhưng trong những ngày lầm than ở căn gác nhỏ
cầu Bạch Hổ đã viết những câu thơ ướt đẫm tình cảm, cũng như Đồng đã làm
tập "Sóng vỗ chân cầu". Bỏ đi những ý tửơng siêu hình, tiếng vỗ của
dòng sông trong đêm đã nẩy ra những ý thơ tỏ tình với thiên nhiên... Có
phải không chúng mày?
Chúng tôi thay đổi chỗ đóng quân chung quanh thành
phố Huế, tình hình địch nhẹ nên chỉ hành quân lục soát sáng đi chiều về.
Thời giờ nhàn rỗi đủ để tập họp nhau phá nát người bằng những cơn say
ngây ngất. Tiểu đoàn chúng tôi ra đây với tiểu đoàn 7 Nhảy dù: Lô, Lạc ở
đấy họp với phe chúng tôi làm thành một lũ quỉ đủ khả năng vượt quá
biên giới hỗn loạn. Tụi chúng nó phần đông là người Huế, nhưng trên
chuyến trở về quê hương này tất cả hình như thấy lạ... Tôi hỏi Lạc:
- Mày ở đây từ bé đến lớn sao không có người quen?
- Người quen cỡ tuổi tao đi hết rồi... Ở Huế chỉ có hai nghề: Đi học và đi dạy, muốn làm nghề khác thì vào Nam.
Hình như cái cảm giác xa lạ này đã gây cho chúng
tôi phản ứng của những kẻ không quê hương, không trách nhiệm với phần
đất đã nuôi dưỡng lớn lên. Cơn say như dấu hiệu một rời bỏ đành đoạn,
cách phá vỡ hung bạo che dấu nỗi thất vọng không tên. Sau mỗi chuyến
hành quân, chúng tôi họp nhau tại khoang đò, chai rượu, đêm vắng và mặt
nước sông chông chênh, cơn say xảy đến đồng thời với cơn đùa cợt nặng
chĩu dục tình được thả lỏng. Chúng tôi hả hê tàn phá trong oi ả nồng
nực. Vào những ngày cuối tháng chín, đóng quân ở lăng ông Ngô Đình Cẩn,
thật là một tham vọng tội nghiệp của trí óc non yếu, ông ta cố bắt chước
cách vĩ đại của lăng tẩm vua chúa nhà Nguyễn, xây phần mộ mình theo
kích thước của những vị vua. Nhưng lối bắt chước nghèo hèn, kiến trúc
được xây dựng bằng vật liệu tân thời lại muốn có vẻ xưa cũ cổ kính, sự
hòa hợp không có, nên trở thành tủn mủn, vụn vặt, quê mùa, kệch cỡm như
một lão nông phu diện âu phục. Những ngày này tôi còn có dịp để xem
Khiêm Lăng, mộ vua Tự Đức, người ta bảo đấy là lăng đẹp nhất nhưng cũng
không gây cho tôi một ấn tượng nào, tất cả đều có vẻ nhỏ nhoi tầm
thường. Điều này dậy nên trong tôi cảm giác ngậm ngùi vì chứng kiến tính
chất càng hạn hẹp của kiếp người, dù là vua chúa. Tôi thấy càng rõ cảm
giác này khi vào lăng Khải Định, thấy hai bà phi bị tiến cung từ thuở
bé, rồi theo cái chết của vị vua sống trong lăng này gần bốn mươi năm,
bây giờ, tuy hai bà đã già nhưng giọng nói còn trong trẻo. Phải chăng họ
vẫn đồng trinh? Tôi nghĩ đến đời sống của một ông vua không lấy gì vĩ
đại lắm và các đời sống tầm gửi khác vây quanh. Khi vào chỗ bệ thờ vua
Khải Định thấy cái hộp plastic đựng xà phòng. Quả đã xa hẳn với quá khứ
của quê hương...
Đầu tháng Mười, theo quốc lộ 1 ra Đông Hà, thị trấn
cực bắc của miền Nam đầy lính và chiến tranh. Thành phố không người mặc
áo quần màu, người dân ở đây sống trong không khí đặc biệt của tiền đồn
nên hòa vào cùng tập thể lính. Chúng tôi chia thức ăn trên quốc lộ 1,
trái hỏa tiễn 122 ly từ bên bờ Bến Hải bắn qua, hai lính chết, bốn bị
thương, một nhà dân sụp đồ đạc bị bắn tung tóe. Nửa giờ sau bình thường
trở lại, bà chủ quán lặng lẽ thu dọn đống gạch vụn, một vài người đi qua
liếc nhìn chỗ đổ vỡ... Tụi nó lại bắn nữa!! Tôi nhìn cột cây cây số,
Đồng Hới 16... Con số chót bị đạn phá vỡ đọc không được, thấy miền Bắc
thật gần nhưng cũng rất xa. Nhìn ra phía Trung Lương, Gio Linh, phản lực
Mỹ luôn luôn thường trực, bên kia bờ Bến Haœi, từng cuộn khói bốc lên
mù mịt. Lần đầu tiên tôi có cảm giác đánh trận giặc có chiến tuyến, cảm
giác gây nên nỗi bình yên vì khỏi lo đạp mìn, chông. Giặc du kích đáng
sợ vì kẻ thù dấu mặt, chết xảy đến không biết nguyên do.
Chúng tôi theo sông Đồng Hà ra Cửa Việt, chiến dịch
được mở dài hạn, ba tiểu đoàn Nhảy dù có nhiệm vụ lập những đầu cầu và
bảo vệ an ninh để các toán công binh lập cứ điểm phòng thủ hệ thống hàng
rào Mac Namara, tiểu đoàn tôi lục soát từ Cửa Việt đến lằn ranh nam khu
phi quân sự, bảo vệ cạnh sườn tiểu đoàn bạn. Chín giờ sáng, tàu nhổ neo
rời Đông Hà, trời mù, mưa giăng kín mặt sông, hai bên bờ nước tràn mênh
mông, rừng cây dương thấp thoáng qua màn sương. Hai bên bờ đồn nhỏ nằm
rải rác bảo vệ thủy đạo, lính Mỹ đứng ở bờ thấy chúng tôi đi qua, la lối
ầm ỉ, hình như Hải quân cho để tóc dài, nên anh nào anh nấy râu tóc bờm
xờm vàng rực. Người lính thú ở miền xa nào trông cũng tội nghiệp như
nhau. Tiếng gọi của họ vang xa trên mặt sông, nghe buồn buồn như một nỗi
tuyệt vọng, chiếc thuyền chạy miết, bóng người lính viễn chinh chìm dần
trong màn mưa.
- Mày trông tụi nó có "tay tổ" không? - Mễ, đại đội trưởng 91, tay đánh giặc sắc nét nhất trong bọn hỏi tôi.
- Tay tổ cái gì?
- Tụi con gái chèo đò đó.
Chết thật, chị em ta đã ra đến vùng phi quân sự
kiếm ăn!! Miền Trung từ Huế trở ra coi như là đất kín đáo, gái điếm ở
Huế sống lén lút chui rúc, cả thành phố có đâu khoảng mười ổ điếm, không
kể các khoang đò. Tỷ lệ đó so ra quá ít với Sài Gòn hay bất cứ một tỉnh
nào khác. Nhưng ở đây là Đông Hà, thành phố của lửa đạn cỡ lớn, súng
tay chỉ là trò chơi, thành phố không một chiếc giường nổi khỏi mặt đất,
thế nhưng gái điếm lại đông đúc và sinh hoạt hung hãn hơn bất cứ chỗ
nào. Chị em hành nghề với một chiếc thuyền có mui đậu giữa lòng sông làm
phòng ngủ lưu động, dùng chiếc thuyền con hai người chèo, cô nàng tiến
sát hàng rào phòng thủ của Mỹ... Người chị em toác mồm gọi... Ô kê! Và
hiện thực hơn, trình bày một ít vốn trời cho khiêu khích - Áo bà ba chỉ
cần tuột ba khuy hoặc vén thân áo ở bụng lên, có người thực tế hơn nữa
chỉ vào...
Đi dọc theo con sông chúng tôi chứng kiến được cảnh
"liên hiệp" giữa hai quốc gia thật chặt chẽ. Những người con gái của
tỉnh địa đầu lăn xã vào đám lính trẻ ngoại quốc như nhập vào cơn điên.
Có gì đâu phải ngần ngại? Chiến tranh đó, sự chết, trại định cư chập hẹp
dơ dáy, một ngày mười hai đồng ăn cái gì? Gạo không có, thôi cái vốn
trời cho này hưởng thụ cho hết, lợi dụng cho đủ, miền đất này chỉ có đá
và cát, nghề biển không được, thì thắc mắc làm gì, hãy kiếm sống vì sống
là vấn đề lớn. Cần gì phải được giải Nobel văn học rồi tuyên bố "Tự tử
mới là vấn đề"... Sống ở đây còn khó hơn được tự tử! Tàu đến Cửa Việt
lúc bốn giờ chiều, trời mưa, cảnh vật u tối, tôi bước chân xuống biển,
lòng nao nao xúc động. Lâu rồi không về với biển, biển luôn luôn là
quyến rũ mới mẻ, đặt chân xuống bờ cát ướt, tưởng như thấy một tuổi trẻ
mười sáu ở đâu đây. Nhưng lòng đâu còn trong sáng như những buổi chiều
Đà Nẵng ngày xưa, bây giờ là nỗi phiền hư hại như tiếng cười nồng nặc
dục tình của đứa con gái trên khoang đò. Nhìn sang bờ phía bắc, bờ biển
lượn một hình cong đẹp đẽ; thật lạ, từ Cửa Việt chạy đến đèo Hải Vân bờ
biển thẳng tắp như có một bàn tay người cắt xén, ở đây trở ra bãi cát
chuyển hình cánh cung. Trong mù mờ của buổi chiều bờ biển phía bắc tối
hẳn lại, ở đâu Đồng Hới, đâu là Cửa Tùng? Nhớ lại câu thơ: "Thấy mênh
mông Cửa Việt Cửa Tùng... " Đứng ở bờ Cửa Việt hôm nay, người tôi vỡ tan
do xúc động ngây ngất... Quê hương miền Bắc đó, có ai đứng bên đó nhìn
về bên này chăng? Chắc rằng trong tận cùng tâm hồn Việt Nam, ai đi đến
nơi đây lại không có cách xúc động này. Đây cũng là niềm tin để sau
chiến tranh xây dựng lại quê hương. Mong thế.Tin thế.
Hai giờ sáng, khởi hành từ Cửa Việt tiến quân lên
phía bắc, đi dọc theo bờ biển. Mục tiêu là những làng nhỏ nằm sát lằn
ranh khu phi quân sự. Đoàn quân di chuyển bằng xe M, Track cửa Hải quân
Mỹ, tương tự như M.113 nhưng dầy và nặng nề hơn, dùng để lội nước hơn để
đi trên đất. Đoàn xe chạy theo hàng dọc, không đèn, mọi người tắt lửa,
cuộc chuyển quân phải thực hiện trong đêm để tránh pháo binh và hỏa tiễn
địch. Xe tiến chậm rãi, trăng non vừa mọc, ánh sáng bàng bạc soi xuống
mặt bể chuyển động lóng lánh những lượn sóng bạc đầu, mưa giăng bụi mờ
chân trời. Chưa có một chuyến đi nào hào hùng bằng, sóng biển đánh vào
thành xe bọt tung lên ướt đẫm thân thể. Giờ này mới hiểu rõ niềm cô đơn
của người lính biển. Quân đi như trong giấc mơ. Cũng hiểu được tại sao
thuở nhỏ tôi vẫn thích Chinh Phụ Ngâm hơn Kiều; Kiều trang trọng, kiểu
cách và có vẻ "Tàu" quá.
Chinh Phụ Ngâm mới là tiếng than dài...
Hơi nước lạnh người rầu mặt rạn
Giòng nước sâu ngựa nản chân bon...
Tôi yêu những câu thơ này từ năm còn học đệ ngũ,
lên đệ tam, linh hồn mở ra thêm hoài những chuyến đi xa. Những câu thơ
này dành cho tôi. Đã linh cảm từ những năm trẻ nhỏ đó... Năm tháng sau
này sẽ là những ngày dài trôi nổi. Đi lính có nghĩa chấp nhận chuyến đi
xa. Bây giờ thấy rõ ấy là sự thật. Quả tình tôi không thể làm được
chuyện gì lớn trong đời, tất cả mọi chuyện hình không thể nào quan trọng
với tôi. Lớp đệ ngũ, trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng, thầy Quế hỏi:
- Theo em nghề gì tự do và thoải mái hơn hết?
- Thưa thầy: Đấm bóp!
Lẽ tất nhiên tôi nói đùa để các bạn học cười, bao
nhiêu lâu chỉ xuất sắc được ở môn nói láo và khôi hài, hai quý tính này
lẽ tất nhiên không giúp cho tên học trò khá hơn. Ngồi trong lớp tôi rình
rập, đợi chờ, chuẩn bị câu khôi hài để cả lớp cười ồn theo. Ai làm tôi
trở nên vậy? Bố mẹ tôi vốn nghiêm chỉnh, giống chăng một ông cậu ở tính
"tiếu lâm vặt". Khi trả lời với thầy Quế như vậy, tuy chỉ là câu đùa
nhưng tôi biết mình đã rất nhiều thành thực. Biết làm sao được vì tôi
khoái cái anh đấm bóp cầm đèn xanh và chùm kim khí chỉ xuất hiện sau khi
đèn đường đã thắp sáng. Và tôi nhớ kỹ thầy Quế đã phán một câu: "Rồi
suốt đời, anh sẽ không làm được gì hết". Đúng quá, tôi chẳng thích làm
lớn một tí nào hết, đời bắt làm sĩ quan, chỉ huy lính đánh giặc thì tôi
làm, nhưng nghĩ cho cùng tôi chỉ muốn làm một tên lang thang.
Chuyến đi này hợp ý quá, năm giờ sáng đến mục tiêu
cuối cùng, bố trí cấm lửa, hạn chế vô tuyến, địch đang dò chừng chúng
tôi... Nằm trên bờ cát nhìn ra biển, hút điếu thuốc thấy thú vị vô cùng,
chiến tranh và trái hỏa tiễn thù hận được quên đi. Trời tối, ở yên tại
vị trí, mọi cuộc di chuyển đều cấm ngặt, nhìn sang bờ bắc trời vẫn còn
mù nhưng có thể phân biệt vài căn nhà, quê hương đó xa cách như không
bao giờ đi đến. Phía bên trái chúng tôi tiểu đoàn 6 bắt đầu tiến lên các
đụn cát, bóng đen những người lính vừa xuất hiện trên đồi 24 đạn đại
bác từ bờ bên kia rơi chính xác ngay đỉnh đồi... Những người lính tiểu
đoàn 6 đào vội hố cá nhân, cử động của họ hấp tấp, vội vàng dưới làn mưa
đạn, trông tội nghiệp như những con thú bị đuổi. Đồng thời có giọng nói
Mễ trong máy, bây giờ nó đã vượt lằn ranh khu phi quân sự... " Trình
đích thân Mê Linh tôi bị..". "Sếp" bấm chặt combiné, im lặng. Mễ biết ý,
đổi giọng: " Trình đích thân nó ném đá, nhưng trước mặt tôi hai thước.
Chắc chắn rằng Việt cộng theo dõi được đàm thoại nên từ giờ phút ấy đạn
cứ rơi đằng sau chúng tôi hằng hai cây số!! Đoàn xe chở chúng tôi trên
đường trở về bị đạn chạy lung tung, một vài anh tài xế dại dột cho xe
chạy ra gần bờ biển trống trải, Cộng quân trông thấy điều chỉnh đạn rơi
tới tấp. Tiếng đạn rít qua đầu nghe tai quái, nhưng yên chí, địch không
biết chúng tôi ở đây. Phản lực từ Đà Nẵng bay ra không đầy năm phút sau,
chiếc thứ nhất trút xuống, ba chiếc kia lượn vòng; thay nhau trút bom
xuống phần đất phi quân sự ở bờ phía bắc, lợi dụng cơ hội, tiểu đoàn 6
gọi trực thăng tải thương, M, Track của Mỹ lình kình chạy về Cửa Việt.
Chỉ có việc nằm im trong rừng thông, máy truyền tin
được lệnh hạn chế đến mức tối đa, lần đầu tiên tôi cảm thấy bình an, vì
trận địa đã chia thành chiến tuyến rõ rệt, không cảm giác bị rình rập
sau lưng. Đến chiều, lợi dụng lúc Hải pháo từ hạm đội số 7 bắn lên,
chúng tôi hối hả nấu cơm, xong len lỏi trong rừng dương liễu rút quân về
lại phía nam. Chiều mùa đông xuống thật nhanh, được lệnh đóng quân, nằm
ngủ ngay trên cát bên cạnh hố. Suốt ngày đi dọc bờ biển, đêm ngủ dưới
rặng phi lao, tôi nhớ những ngày mùa hè mới lớn... Suốt ngày lang thang
trên bãi, đêm ngủ bờ cát, đốt đèn đi bắt ghẹ, loại cua nhỏ và dẹp, dưới
ánh đèn khí đá con ghẹ chạy bay biến trên nền cát ướt, Tuấn cầm đèn, Hải
kéo chiếc thùng, tôi đâm lao, số ghẹ bắt được luộc ngay ở bờ biển khi
đêm khuya đang ngã về sáng, sao hiệp sĩ hiện rõ ở nền trời. Khuya này,
tôi cũng ở trên bờ biển, nhưng đã là một lính già, thèm được thấy ánh
lửa trại đội trưởng của Thiếu sinh Hướng Đạo miền Trung... Quê hương,
tuổi nhỏ, thời ấu thơ đã xa mất rồi.
Gần sáng, cả tiểu đoàn thức hẳn dậy... B 52. Ở hậu
cứ mỗi khi nghe radio phần tin tức buổi sáng: Vào bình minh hôm nay, B
52 đã dội bom xuống dùng phi quân sự... Không một ai chú ý, xem chỉ là
mẫu tin nhỏ. Nhưng đến sáng hôm nay, chúng tôi mới thấy được tầm quan
trọng cũng như cường độ công phá của trận oanh tạc. Nơi dội bom cách
khoảng chúng tôi bốn cây số, mỗi lần bom nổ, người đang nằm dưới đất bị
bắn tung lên, người nằm trên võng bị ném xuống, những cột lửa lóe lên đỏ
rực như ánh đèn xì để gần mặt. Tôi chưa thể hình dung được sức nổ của
bom nguyên tử, nhưng bom B 52 ở đây đã vượt qua ý niệm tàn phá. Đất rung
chuyển như nức nẻ, lồng ngực bị nén hẳn lại, bom không nổ từng tiếng,
nhưng từng giây, từng chuỗi kéo dài ra như âm dội của ngàn thác lớn, gây
nên cảm giác đất đang vỡ vụn nhỏ. Chúng tôi ở xa nơi ném bom còn thấy
nghẹt thở, không hiểu những người lính miền Bắc ở chỗ bị ném bom sẽ ra
sao? Bom đạn đâu có phân biệt được người Cộng sản hay không, giáo điều
của Bác và Đảng làm sao giúp người lính Bắc Việt có thể sống, hoặc bình
thường nếu được sống sót dưới trận mưa bom và nếu quả thật có một người
Cộng sản nào đó không sợ hãi dưới tiếng nổ xé vỡ vũ trụ kia, thì kẻ đó
hẳn không còn tính người, đấy chỉ là một loại xác chết được đẩy vào
chiến trận. Và như thế, chiến tranh này chỉ có giữa những người máy với
nhau, một thứ từ phương trời thật xa đến, không nhìn, không nghe, không
thấy mục tiêu, địa điểm đánh bom được đánh dấu bằng ra-đa, bấm nút bom
rơi xong bay trở về; chắc rằng nhiều phi công B.52 chưa hề thấy một
người Việt Nam. Và một loại người máy khác, lòng đầy thù hận, không tim,
không óc, không tình thương, không sợ hãi lăn vào cái chết - Nào có
được vinh quang gì những cái chết được xem như chủ đích của đời sống.
Chúng tôi đúng là một kẻ ngoại cuộc, cô đơn trong chiến tranh.
Trở lại Huế, trời đã vào mùa đông, nhìn những chiếc
áo trắng tươi mát đi học trên đường dọc dòng sông, thấy mình cằn cỗi
như một thứ vũ khí bị sét. Từ Nam Giao đi xe về Huế gặp lúc tan học, học
trò từ Quốc Học và Đồng Khánh dồn ra reo vui trên đường phố. Chiếc xe
nhà binh đi trong tiếng cười linh động trông như một nỗi buồn già...
- Xe nhà binh đằng sau, tránh đi tụi mi! - Cô gái
nhỏ báo hiệu cho bạn bè, chữ "nhà binh" nghe nặng nề như một lời trách
cứ. Các em nào biết được lòng ta, một thứ lính tội nghiệp đang chống đỡ
cho quê hương.
Lần đầu tiên tôi thấy sếp nổi giận thật tình, một
người mặt lạnh, một gã Mộ Dung Phục tân thời, cao ngạo trầm tĩnh, nổi
tiếng hách từ thuở còn quan một, quan hai, bây giờ cũng đùng đùng nổi
giận, cũng cáu kỉnh ra phết... Từ trên xe bước xuống, sếp gầm gừ. Anh Ba
"Vẩu", tiểu đoàn phó khẽ nói:
- Mẹ, lại có chuyện gì ghê lắm rồi... - Dẹp bài.
Chúng tôi đang ngồi rút một canh xì còm đánh lai rai kiếm tiền về Sài
Gòn tiêu. Hành quân vào ngày thứ bảy mươi hai, được lệnh về Sài Gòn, sếp
đi họp để bàn chuyện triệt thoái. Nhưng bây giờ với điệu bộ hung hăng
của sếp như vậy chắc chắn là có vụ gì vỡ mặt, nói theo ngôn ngữ anh Ba
Phó. Sếp vào, mọi người im lặng, chưởng đầu tiên nhắm vào sĩ quan hành
quân... - Anh Đỉnh, lần sau tôi đi họp mọi người ơœ nhà trực máy cẩn
thận, cái lũ truyền tin khốn nạn!
Anh Ba Đỉnh:
- Vâng.
Chưởng thứ hai hạ tiếp vào tôi:
- Tôi muốn anh điểm danh lại đại đội, ở ngoài Huế
lính của anh đang làm loạn... Tôi muốn (muốn gì nhiều quá cỡ) Đại úy
tiểu đoàn phó thôi không đánh bài nữa!
- Vâng... - Anh Ba "vẩu" chưng hửng. Mễ thì thầm nói với Thừa:
- Chắc phải cày thêm nữa mày ơi. - Sếp đưa mắt một vòng hình như đã bớt cơn thịnh nộ, thấp giọng:
- Chưa được về Sài gòn, ngày mai đi Darkto!
Đại úy Freund, cố vấn trưởng tiểu đoàn lân la tới:
- We will go to Darkto tomorrow, Sir?...
- "Tô" và chén cái con mẹ mày "phân" à ("Phân": âm tự tên Freund). - Thừa trả lời, anh Mỹ ngây ngô toét miệng cười: OK!
Thế thì sống sao nổi, tưởng được về Sài Gòn ai ngờ
lại đi Darkto, buổi họp bàn tính kế hoạch không vận ỉu xìu chẳng ra ngô
khoai gì hết. Hết họp, sếp lúc này đã lắng xuống mới làm ra cái giọng
thản nhiên.
- Các cậu về đừng cho lính biết...
Chúng tôi bước ra cửa kháo nhau... Quan biết còn đi
không nổi nữa là lính... Tôi đi về chỗ đóng quân đại đội, Lính đang
biểu diễn một màn gọi là "giã từ soong chén". lính hay có những cái
"khỉ" đáng yêu như vậy. Sau mỗi lần hành quân dài hạn đem chén bát ra
đập vỡ bằng thích, soong chảo bị đâm nát hoặc đem tặng lại cho đồng bào,
một thứ quà gởi lại em gái hậu phương cam đoan không một anh nhạc sĩ
loại thủ dâm tinh thần lính có thể biết được để đưa vào nhạc cho các ông
thợ hét "anh tiền chiến" rên rỉ. Gạo, cơm, mắm, muối, đồ ăn thức uống,
còn bao nhiêu các anh chiến sĩ can trường đem tặng hết cho đồng bào, làm
sao chỉ còn một túi ba-lô thật gọn, với vài bịch cơm sấy để mai lên tàu
bay là được... Mẹ kiếp, về Sài Gòn xuống tàu bay mà mang cái nồi đen sì
thì đĩ nó cũng chê nữa... Ném! Hạ sĩ Em ném cái nồi xuống lưng đồi một
cách hung hãn theo lời khuyên quí báu. Nhìn cảnh tàn phá, tôi phát
hoảng... Kêu thường vụ tập họp đại đội lại!! Đại đội đứng trước mặt,
chưng hửng chờ đợi vì thấy tôi có vẻ nghiêm trang....Các anh không được
cho thức ăn, không được phá đồ nấu ăn, có thể đợi máy bay ở phi trường
hằng ba bốn ngày... Ai lỡ ném soong chảo phải đi tìm lại. Lính xì xào
bàn tán... Tôi đệm thêm một câu: Nhắc lại, vấn đề đợi ở phi trường là
điều chắc chắn. Bố khỉ, tôi nói láo cũng ra gì.
Chiếc tàu bay C.130 cất cánh khỏi phi trường Phú
Bài, nhả những ống hơi điều hòa không khí, lấy bằng phi bay về hướng
nam. Tôi đứng dậy từ đuôi máy bay nhìn đám lính ngồi kháo chuyện trước
mặt, anh nào anh đó cũng có vẻ hí hởn, ba lô đầy cứng mè xửng với nón
Huế. Thạch Sen, xạ thủ súng cối đại đội:
- Chay me, tao cho con vợ cái nón Huế bây, vợ mừng...
- Anh em yên lặng, tôi có chuyện nói. - Cả tàu im
phăng phắc hướng về tôi. Ngần ngại một thoáng ngắn...- Báo tin cho biết,
tàu bay không về Sài Gòn, chúng ta đi Darkto. Tiểu đoàn phải hành quân ở
Darkto trong mười lăm ngày nữa.
Một tiếng ồ thật lớn nổi lên, mọi khuôn mặt hóa
thành đờ đẫn, xong thộn ra thiểu não không chịu nổi. Dương Phen nói với
Thạch Sen:
- Đ.m... Darkto ở đâu bây?
- Tao không biết. - Nó đấm một cái rách tung chiếc nón Huế.
- Trung úy nói giỡn chọc tụi em? Một vài người lính đến bên tôi dò xét.
- Tao hết cách giỡn rồi sao, tao cũng rầu thấy mẹ... Tên lạc đà của tôi ngồi một bên nói tiếp:
- Đi Darkto thật đó...- Những tên lính de lui, mặt dài ngoẵng.
Tôi đã xuống nhiều phi trường quân sự trong đời
lính, nhưng không có phi trường nào tiêu điều buồn bã bằng phi trường
Darkto chiều hôm đó. Hàng chữ xi-măng gắn trên cổng phi trường gãy đổ
xiêu vẹo, chữ còn chữ mất trong càng thêm xơ xác. Đêm ở đây thật lạnh,
lạnh rút vào trong xương, bao nhiêu áo quần mặc cũng không vừa, lạnh
không phải từ ngoài thấm vào nhưng từ trong cơ thể thoát ra. Chúng tôi
rút vào câu lạc bộ trung đoàn 42 để uống cà phê, cà phê làm sao quên
được nỗi buồn nản của cuộc hành quân kéo dài này, thôi thì rượu vậy,
rượu không có thì bia. Trong quán ăn lính ngồi đầy nhóc, mặt mũi anh nào
cũng chảy dài ra vì buồn... Hát đi tụi mày, vì sao không hát cho vui
nhỉ? Có quái gì đâu phải cau có, hành quân thêm mười lăm ngày nữa có
chết con ma nào đâu! Đúng, đúng! Mượn hơi men, một vài anh cao hứng làm
ra cái điều khẳng khái. Hát, một người đứng lên hát... À, Tám Lọ ở đại
đội 72. Được, thằng này làm hề khá. Tiếp theo anh xạ thủ súng cối người
Miên của tôi lên hát, thằng này có giọng tốt, bis, hát nữa đi Phen. Phen
được uống chai bia, cao hứng làm tiếp ba bài, thiên hạ vỗ tay rào rào.
Đến lượt quan ba Mê Linh làm một đường ngâm thơ "Mòn mõi" nghe cũng tình
tứ... Thế là văn nghệ tạp lục hay gấp vạn lần của anh Tùng Lâm, hấp dẫn
không kém một đại bang nào. Đêm đã khuya, đoàn văn nghệ bất đắc dĩ cạn
vốn, ngày mai còn phải vào núi, cơn say chưa đến và lạnh như dao cắt.
Phiền buồn thật xót xa.
Hành quân, những ngọn đồi phía đông bắc quận
Darkto, bên phải con đường chiến lược nối Darkto với Darkpec, bên trái
trung đoàn 42, phía nam Nhảy dù Mỹ. Địch đang gây áp lực mạnh chung
quanh quận lỵ này, mục tiêu là phi trường nằm thấp xuống như lòng chảo
Điện Biên. Núi ở đây còn khó hơn ở Pleiku, cao chót vót trơn tuột, rừng
già không dấu vết người. Đi sâu vào phía đông, xong lại rút ra đi dọc
theo con đường lên Toumorrong. Địch không có, biệt khu 24 lại vẽ thêm
mấy mục tiêu ở phía bắc, đi tiếp cũng không có một dấu vết gì. Thôi đóng
quân trên mấy ngọn đồi cao xong tung quân lục soát, xếp quyết định.
Trong rừng bảy ngày rồi, thức ăn không có, đêm quá lạnh có người chịu
không nổi phải đào hố đốt lửa thành than, lấp đất lên rồi căng võng trên
đống lửa ngủ. Kể từ ngày ở Huế đến bây giờ là mười ngày cả tiểu đoàn ít
có người nào xuống suối tắm. Rét đã làm da thịt săn lại, chẳng có ai
can đảm nhúng vào nước. Tuần tiễu cấp trung đội, các đại đội trửơng được
ở tại chỗ. Tôi bò lên đồi đóng quân của Mễ, nó có chai rượu whisky
Nhật, mấy củ hành lá được mang ra, chai rượu uống đến giọt cuối cùng...
- Ngon mày ạ! Lần đầu tiên tao uống được whisky Nhật, cực quá!
- Gắng cực đi con, không đụng là tốt rồi...
- Có Việt cộng đâu?
- Mày không biết đấy, nó đánh với Mỹ tơi bời ở phía nam...
— Thế hả? Vậy thì về là vừa, tao nhớ thằng con quá... - Câu được câu mất, tôi nói với Mễ thì thầm trong choáng ngập buồn phiền.
Sau mười ngày trong núi, tiểu đoàn được lệnh rút ra
Tân Cảnh, thị trấn nằm về phía nam của quận Darkto. Tám mươi hai ngày
hành quân kể từ ngày rời Sài Gòn, mười ngày cuối cùng trong rừng không
thấy mặt trời, tóc râu mọc lởm chởm trông như lũ ma. Thôi, trả nợ đời
như thế này coi đã đủ, bây giờ thiết kế tính chuyện ăn chơi. Tiền ở đâu
ra? Không còn một tên nào có được năm trăm trong túi. À, có ông địa mập,
thiếu tá quận trưởng Darkto. Nhưng đứa nào dám lên ông ta xin rượu? Con
đường Tân Cảnh-Darkto sáu cây số, hai cuộc phục kích xảy ra trong đoạn
đường ngắn ngủi này đã giết chết một ông đại tá. Gần đây, ngày hôm kia
các trại định cư người Thượng ở phía trái con đường bị Việt cộng tấn
công, bây giờ là tám giờ tối. Đứa nào dám đi? Cả bọn đều e ngại, nhưng
cuối cùng cũng có bốn ông liều do tôi chỉ huy mượn chiếc xe của một
thiếu uý khóa 22A ở đơn vị bộ binh Tân Cảnh. Chúng tôi lên xe, xe chạy
như điên không để đèn, sáu cây số đi như một cơn mê. Ông quận trưởng,
thiếu tá Biệt động quân "ô kê" cho chúng tôi rượu, rượu không có thế vào
két bia và tí tiền còm. Xong cả bọn phi nhanh về Tân Cảnh, gái ở đây
chỉ còn ở tổ quỉ độc nhất ngoài thị trấn...
Những phiền toán cực nhọc cho quên hết, da thịt
được mở tung ra thoả thuê, thế giới này chỉ có lính, và lính đồng nghĩa
với phung phá đến tột độ. Các em bé cũng chịu chơi ra gì, đóng cửa quán
lại vui vẻ với các anh, một lần đầu và cũng là lần chót. Đêm thật lạnh,
rượu ngấm vào và khuôn thước nào để gìn giữ sau tám mươi hai ngày hành
quân. Say đi anh em, cơn dục tình vui vẻ như một tiếng reo vô tội. Khoái
quá! Nuôi "con" hét lớn. Ừ vui thật, "xong rồi anh em!!" Nhảy dù có chữ
"xong" mất dạy một cách đáng yêu. "Xong rồi", thế là hết, nhưng cũng
không xong tí nào, một cây sào luôn đẩy người đối thoại vào chỗ chới
với. Xong rồi! Cứ xong mãi nhưng không bao giờ xong điều phiền muộn!
Đêm khuya, rượu hết, các em gái cũng phờ phạc trông
đến chán, cả tụi kéo nhau về. Không hiểu do một thứ "đào hoa vặt" hay
không? Tôi được một em bé níu kéo nài nỉ ở lại. Không ở lại cũng phí của
trời ông ơi! Hiến "chó xù" đề nghị. Đấy, ông giữ cái súng XM 16, này lỡ
đêm nay Việt cộng có tấn công còn đường tiến thủ, xong oanh liệt chết
trên bụng em bé! Xong rồi! Ta sẽ ở lại. Tôi hùng dũng nhận lời. Ôi, ái
tình lẻ cũng tạm được, em bé lại khóc mùi mẫn vì sợ chia ly! Tôi đâu ngờ
được cảnh thê lương thế này. Em lại cho tôi tập thơ, thế là hết chỗ
nói, thơ với ái tình đi kèm nhau là phải. Đêm cao nguyên lạnh, nằm trên
chiếc giường êm, em bé lại đẫy đà da thịt thừa thãi... Ba tháng hành
quân, nằm đồi, ngủ núi được bù trừ một cách đầy đủ, em lại to con dai
sức, bất chi lao. Sáu giờ sáng, nàng Kiều tiễn chân tôi ra bến xe Lam.
Khi trèo lên cái dốc vào trại trung đoàn 42, tôi đi như muốn bò, vào đến
nơi đơn vị đã lên xe để ra phi trường, tôi nặng nhọc trèo lên chiếc GMC
ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Hôm nay là ngày 23 tháng Mười một: Hổ, Hiến, Dưỡng
và Lộc được thăng chức Trung úy. Sếp gắn lon, đại đội 91 được lệnh lên
tàu bay về trước, tiếp theo đến 92 và 93... Chiếc tàu bay chở đại đội 92
vừa ra đến phi đạo thì Việt cộng bắt đầu pháo kích. Quả thứ nhất rơi
bên cạnh phi đạo, lính tỉnh bơ cười nói như không có gì, quả thứ hai và
thứ ba trúng ngay cánh chiếc C.130 chở đầy lính đại đội 93... Phi cơ bốc
lưœa, Việt cộng pháo kích liên tiếp vì mục tiêu đã nhận rõ. Lính đại
đội 93 chui từ trong máy bay ra lúc nhúc như chuột bị động ổ, lửa khói
và tiếng nổ khắp bốn phía... Sếp bị trúng đạn ngã xuống, Mễ chạy ra xốc
nách đem xuống giao thông hào bên trái phi đạo, khu phi trường biến
thành địa ngục, đạn chất sẵn để đưa lên máy bay chạm xăng bốc lửa nổ như
sấm. Chạy, chỉ còn một cách là tránh khỏi khu phi trường... Bây giờ mới
có thể hiểu được thảm cảnh của Điện biên phủ suốt hai tháng nằm dưới
cơn mưa pháo 105 và cối 82. Chúng tôi ở đây bị ba khẩu sơn pháo mà đã
chới với rồi. Tôi dẫn đại đội chạy ra ngoài phi trường, mỗi thằng chỉ
mang được một cây súng, đến cổng tôi tạt vào cái lô cốt để ngồi nghỉ,
nhìn xem quân ta tịch thu "chiến lợi phẩm" do lính Mỹ trong lúc hốt
hoảng vất tung tóe. Cám ơn Việt cộng và cám ơn lính Mỹ!
Giao lại Darkto cho chiến đoàn 3 Nhảy dù, gồm tiểu
đoàn 2 và 3 Nhảy dù. Chiến trường bắt đầu sôi động, các anh ở lại để
chứng tỏ can trường của người lính Nhảy dù Việt Nam, và các anh đã thực
hiện được khi treo quốc kỳ và chiếc nón đỏ trên ngọn đỉnh Ngok-Wank.
Chúng tôi triệt thoái về Kontum vì phi trường
Darkto không thể sử dụng được, trên đoạn đường đầy bụi đỏ này tôi được
chứng kiến thêm một "nét son" của chị em ta. Đường đầy lính Mỹ và chiến
xa tuần tiễu an ninh lộ trình và một lô xe Lambretta ba bánh. Để làm gì?
Một xe có từ bốn đến tám chị em, áo quần mặc đến mức tối thiểu, một ít
nước ngọt hoặc la-ve, tên tài xế kiêm nghề ma-cô. Đại khái, một chị em
tay cầm chai cô-ca, cặp một chiếc poncho đến sát chiếc M.113 trên xe hai
anh Mỹ con mặt mũi non choẹt, đất đỏ bám vàng cháy. Anh Mỹ con gật đầu,
em bé đặt cái chai vào giữa rãnh bộ ngực, anh chàng cúi xuống nắm cái
cổ chai, đi một đường sờ soạng, con bé cười hinh hích... Cái chai tuột
xuống bụng dưới. OK cứ loạn cả lên, chẳng biết ai hỏi ai trả lời. Chai
cô-ca được kéo ra từ đũng quần con bé. Mệt rồi, cậu Mỹ mở chai nước uống
một ngụm, tay cặp khẩu súng, tay kia dìu em đi vào cánh rừng xanh!... I
get short time! Nó nói với thằng trên xe. Thằng nhỏ trên này gật đầu.
Có một đoàn công-voa Mỹ đi ngược chiều, xe chúng tôi bị kẹt lại nên
trông thấy được màn ciné cochon hấp dẫn. Lính trên xe la như giặc: Dô!
Dô!... Number one!...
Đoạn đường mòn lại đầy nhóc những "khoái kịch" trên. Xe Lam ba bánh đậu san sát với chiến xa và xe công binh Mỹ làm đường.
Thuở bé, nhà tôi ở một chỗ chứa, "Mã Ông Trạng",
chúng tôi chỉ nghe người lớn nói đó là nhà đĩ, nhưng cả lũ trẻ con không
đứa nào biết mặt "con đĩ" như thế nào! Thậm chí tôi còn phịa ra cảnh:
Một thằng lính lê-dương đến chỗ "Mã Ông Trạng" vỗ tay ba cái, bụi rậm mở
ra lỗ hổng, nó chui vào đấy. Đấy "chơi đĩ" phải bí mật và kín đáo như
thế, tôi đã phải rình lâu lắm mới bắt gặp được. Bọn trẻ nhỏ phục tôi
quá. Và tôi cũng nhớ một người phu xe kéo từ chối chở người đàn bà son
phấn. Hắn ta nói nhỏ với người bạn - "Thứ đó đó..." - với một giọng
khinh miệt. Tôi bèn mách với lũ trẻ bạn là đã được thấy một "con đĩ"
rồi. Bây gờ, lũ trẻ con ở hẻm nhà tôi, trong khi ngồi chờ đợi rước mối
cho mấy "chị", đã bàn tán với nhau sự cấu tạo của mỗi chị em và cách
thức hành nghề của mỗi người...
Tháng 12-67. Darkto.
Chương 18: Nghĩ Về Người Ở Mật Khu Nơi Không Sinh Khí
Súng
đạn nổ trên quê hương đã lâu, chiến tranh nên thành hiện tượng thường
hằng như chúng ta ăn, sống, thơœ và chết. Chiến tranh đã xảy ra khắp
cùng rừng sâu, núi cao, nơi thôn xóm, thành thị... Chiếc xe chạy trên
quốc lộ bỗng mìn nổ, bùng vỡ tàn phá. Đêm ngủ trong nhà, súng bắn tới,
pháo kích, chết chóc thê thảm xảy đến như một điều tự nhiên. Ngày sầm
uất ở Thủ đô, giờ tan sở, tiếng nổ phát ra từ chậu hoa, gói giấy, xe hụ
còi, người rên rỉ, nhà cháy, giây kẽm gai giăng kín. Chiến tranh, khuôn
mặt quen thuộc đến nhẵn lì hàng ngày của quê hương tan tác. Tuy thế vẫn
có một vùng đất, có một miền dành riêng cho chiến tranh, nơi sự chết đè
lên sức sống, âm ỉ thù hận, rình rập lên từng cành cây ngọn cỏ. Đấy là
nơi chiến tranh mở hội, máu chảy nên sông, xương kết lá, suối hôi tanh
và gió thổi qua, gió âm âm nặng mùi. Nơi vết thương làm ung độc quê
hương, nơi dòi bọ nhung nhúc thù hằn từ những xác chết nằm chơ vơ, lạnh
lung - Nơi chốn không của người, nơi địa ngục im lặng, vang vọng tiếng
than dài dân tộc rít qua kẽ lá u ám chập chờn - Mật khu.
Mật khu ở đâu? Có ở khắp nơi. Không cần phải đến
Chu-Phong, vào Ashau, A-Lưới... Quê hương có bao nhiêu đất đai, bao
nhiêu sông ngòi, ao lạch, bao nhiêu ruộng vườn, tất cả đuœ chỗ để trở
thành vùng mang dấu tích mật khu! Đường Huế - Quảng Trị, từ cây số 17
trở đi bề ngang hẹp như một thân thể lao xương gầy guộc, quốc lộ 1, mạch
máu đỏ lờ mờ di động đau khổ trên miền núi cằn, biển lỡ... Mật khu ở
đó, trên những ngọn núi Bàn, núi Động Thông vùng Cổ Bi, Hiền Sĩ, bên kia
Phá Tam Giang dọc dãy phố Buồn thiu... Ngược vào nam qua Quảng Ngãi,
Tam Kỳ, Bồng Sơn, xuống đèo Phù Cũ, một bên đầm Trà Ổ, bên kia đèo Ông
Hổ.. Mật khu có đủ nơi, chiếm đủ chỗ, bày ra khắp cùng để người Việt sẵn
chốn nằm xuống. Nằm xuống nhắm mắt ngơ ngác, kinh hoàng... Tại sao tôi
chết ở đây? Tại sao tôi chết ở một nơi chưa bao giờ nghĩ đến? Vào nam
thêm chút nữa hay lên đến cao nguyên, bên trái, bên phải sông Ia Drang
đâu đâu cũng có bếp, hầm, nhà sàn, chông, mìn, lôi, đạp... Tiếp tục
xuống phương nam về gần đến Sài Gòn vùng Hóc Môn, Bà Điểm, An Phú Đông,
rạch Sơ-Rô, rạch Bến Cát ăn qua Lái Thiêu, Bình Dương, qua lại sông Sài
Gòn đến ấp nhà Việc, Bến Cỏ, Bến Mương. Nhiều lắm, nhiều kể không bao
giờ hết. Kể làm sao hết được nơi chốn cho người Việt. Để người Việt tận
giết lẫn nhau. Khắp cùng tất cả trên mọi phân vuông của quê hương này,
đủ chỗ cho người giết người. Làm sao tôi xác định rõ được nơi chốn nào
là mật khu? Cố gắng, cố gắng, trong hốt hoảng, với kinh sợ vì thấy tay
mình vấy máu. Tôi vẽ nên Mật Khu...
Trực thăng đổ quân xuống một vùng núi bị lở ra vì
bom dội xung quanh không có một dấu vết địch, rừng im lặng tịch nhiên,
lấy đội hình đơn vị, người khinh binh đầu tiên dấn bước mười lăm phút,
nửa tiếng đồng hồ sau, tất cả vẫn còn nguyên chỗ cũ, gã khinh binh đi
đầu tiến được khoảng mười thước! Rừng dày quá cây lá đan vào nhau, gai
rừng trâu, gai lưỡi cưa giăng thành từng khóm từng cụm bên trái xanh,
bên phải xanh. Cứ tiến về phía trước, cúi mình xuống, bò lọt vào giữa
hai rễ cây, chặt đứt phăng mối nối, đứng dậy được, lại tiếp tục chặt cho
đến khi con dao rừng rơi xuống đất lúc nào không biết, gai lưỡi cưa móc
vào vành tai lúc nào không hay. Từng thước, từng thước rừng, người lính
tiến về phía trước.... Báo cáo có con đường chạy từ tây sang đông. Đúng
như vậy, đường giao liên, coi chừng đạp chông, cứ dọc theo nó đi về
phía tây bao giờ gặp con suối thì báo cáo lục soát. Có một hầm khoảng tạ
gạo. Đúng rồi, tiếp tục, chung quanh đây còn nhiều thứ nữa. Báo cáo...
Trình "đích thân" có một xấp tài liệu. Đưa lui cho tôi.
Chúng tôi đang ở trong một mật khu. Có gì lạ. Không
gì hết, một ít gạo, vài quần áo cũ, dăm ngôi mộ, lục soát thêm ra hai
khẩu súng cũ... Sống như thế này thì sống chó gì được! Người lính bên
cạnh tôi chửi đổng mấy câu. Phải, không làm sao sống được, ngày này qua
ngày ngồi một góc đường mòn nhìn về một phía rừng. Rừng xanh rì một
khối, trên xanh, bên trái, phải, sau trước đều là một màu xanh mệt mỏi.
Mặt trời không thấy, mây trắng, biển rộng mất bặt trong màu xanh của
rừng. Mới nửa buổi trong khoảng xanh nặng nề này mọi người như ngộp thở,
lá như có tay che bớt, không khí đi vào phổi con người. Thân cây không
to, không cao, chỉ bằng cổ tay, cổ chân, khoảng ba thước cao, nhưng đan
vào nhau, sát vào nhau... Trời nắng ở trên không biết, trời vần vũ làm
mưa không hay. Hai thái dương như bị đấm liên hồi, mắt mờ lòa do từ nơi
chói sáng vào bóng tối. Ánh sáng của rừng không còn là ánh sáng nguyên
thủy, ấy là hơi bốc từ cây, từ lá tiết ra có mùi nồng nồng, có màu nhạt
nhạt xanh xanh. Nửa buổi trong rừng chúng tôi đã ao ước, mong muốn được
đi qua một khoảng trống dù cỏ lau rát da, rát thịt cũng được nhưng hãy
cho chúng tôi một khoảng trống, để đứng thẳng người không mỏi cổ, được
nhìn thấy xa đàng trước, không bị vít, không bị án bởi muôn ngàn giây
leo rễ cái. Mới nửa buổi chúng tôi đã bần thần ngây ngây, huống gì người
cán binh Việt cộng hết dựa gốc cây này đổi qua gốc cây khác, xuống suối
rửa mặt, leo lên chiếc sàn, đâu cũng vướng víu, đâu cũng chật hẹp, có
mắt như bị mù, thấy gì được, phân biệt được gì... Rễ cây nào cũng giống
nhau, lá nào chẳng một màu xanh thăm thẳm. Trong khoảng xanh đen tím
thẫm này các anh đã làm gì? Sinh hoạt tổ tam tam, sinh hoạt tiểu đội,
trung đội, chán ơi là chán. Cứ sinh hoạt hoài hoài với những đề tài đã
thuộc từng chi li tiểu tiết. Hết sinh hoạt lại nấu ăn, đốn củi. Thức ăn
là gì? Khổ lắm, vài đọt kè, đọt búp, rau tàu bay, rau má, một ít ruốc
hay muối trộn vào với nhau thành một thứ canh đắng đắng, mặn mặn, cố
nuốt vào để khỏi đói. Miếng cơm nhai không có cảm giác, giống như loài
bò nhai lại đám cỏ khi nhàn rỗi lười lĩnh. Như nào có cơm, chỉ những lát
sắn khô nấu sền sệt.
Tôi đã đi qua mật khu của các anh, đã từng đổ máu
và giết người trên phần đất đặc biệt do các anh xây dựng. Thông thường
tôi gặp các anh trong tình trạng đã nên xác chết, nhưng dẫu có bị bắt
các anh vẫn không thấy khác với xác của người đã chết bao nhiêu!! Da các
anh không phải da người, trắng xanh bạc thếch đến lạ lùng, một màu sắc
không thật, không có. Các anh nhìn chúng tôi không cảm giác, không ý
niệm, các anh là khoảng trống, bí ẩn, u uất, buồn bã do năm tháng dầy
đặc trong rừng, trong lá. Mắt của các anh hết còn là mắt người. Đấy chỉ
là đôi ngươi khép mở khi thức, ngủ. Đúng như vậy, vì các anh đã đánh mất
ý niệm của thị giác, của tất cả giác quan con người. Các anh hết tính
người.
Bây giờ tôi có thể hiểu tại sao các anh hung hăng
khi tác chiến. Tôi biết rồi... Đấy là lúc các anh đang sống lại. Súng
nổ, đạn bay, tiếng bom, ánh lửa, một thúc đẩy mới, thổi bùng lại trong
người các anh những phản ứng bao ngày bị cùn, bị chặt. Chỉ xung phong,
khi giao tranh, anh mới tìm được nỗi vui vì được giết, được bắn, được
vung vẩy tay chân, được lập lại phản ứng của con người - Được biết thế
nào là sợ. Tôi đoán như thế và tin rằng mình xét trúng. Vì có nhiều lần
chúng tôi đã hạ gục các anh trong lúc canh gác, các anh không còn thói
quen nghe ngóng, âm suối chảy, tiếng nỉ non côn trùng đã làm mòn hết cảm
giác phản ứng... Và các anh còn tội nghiệp hơn nữa - Các anh cần đàn
bà. Đàn bà, sinh vật linh động quyến rũ đã bao lâu không nhìn, không
thấy... Kích thích làn da, rung động nụ hôn, ngây ngất ân ái! Tôi biết
các anh thèm thuồng và nhớ. Rất nhớ. Trong những buổi hội ý, học tập
những thèm muốn đó các anh dấu với nhau, các anh tự che kín ngay với
chính mình, các anh tội nghiệp đến độ bi thảm. Tôi biết cảnh sinh hoạt
linh động có con gái ngực nở, đồng phục đen, mũ tai bèo chỉ có ở một vài
nơi thật an toàn của chiến khu miền Nam, cảnh quyến rũ huy hoàng có đàn
hát, môi hồng, mắt xanh mà báo chí ngoại quốc chụp được chỉ là cảnh
láo, cảnh bịa, cảnh kịch dựng lên cho đám ngoại nhân tò mò cốt để tác
động tuyên truyền.
Tôi biết ở mật khu các anh chẳng có gì cả, thèm
thuồng, nhung nhớ lắm các anh nếu có được một vài quần áo lót đàn bà,
vài nịt vú. Đấy, các anh chỉ có thế! Có thể nói tôi chủ quan khi nhận
xét trên, nhưng từ lối sống ép buộc của các anh, hẳn chẳng có nữ cán bộ
nào thừa áo quần, đồ lót nhiều đến nỗi vất tung tóe khi chúng tôi xâm
nhập đến. Vậy chúng cốt để cho các anh - Các anh đã mắc phải một tật về
dâm tính lệch lạc đến độ khủng khiếp và bi thảm. Tôi không hạ thấp khi
khêu gợi lên cái "dâm" bị cụt của các anh, nhưng tôi biết con người các
anh cũng như chúng tôi sống dưới một cảnh đời, dù bị kiểm duyệt bằng chế
độ nào đi nữa cũng còn những rung động âm thầm của dục tính. Nhưng hỡi
ôi các anh bị giản lược đến quá nhiều, các anh thiếu đến độ cạn mòn
nhất, chúng tôi hiểu và thương các anh nhiều lắm. A! Những hung bạo,
những sai lệch về nhân ái chắc cũng có ở đâu đây, cũng bắt nguồn từ
những ước muốn sôi bỏng bị chèn ép, từ những cuồng bạo được ngụy trang
nên bình thản nầy. Tôi nghĩ rằng, từ chỗ này các anh đã trở thành bạo
ngược, xem người có hạnh phúc là kẻ thù, người đàn ông bình yên bên vợ
con là thách đố, đáng ghét - Đó là hạnh phúc một đời anh mơ tưởng. Ô
hay, các anh hung bạo là vì thế đó sao. Và chỉ là thế!!
Tôi cũng đã bắt gặp rất nhiều mẫu thơ tình của các
anh, không có gì đáng tội nghiệp hơn nữa. Đành rằng người ta có thể yêu
nhau, cảm thông nhau qua trung gian nghề nghiệp, chí hướng, tình yêu
nước, tình đồng đội.. Nhưng tôi cũng nghĩ ra các anh đã quá dối trá khi
chen trong lá thư tình những câu "Thề đánh Mỹ cứu nước" hoặc "tặng Lan
với ý định thực tế đấu tranh tốt cho cách mạng". Làm gì có loại ái tình
kỳ cục và đầy dẫy "chiến đấu tính" như thế. Đành rằng các anh đã bị nhào
nặn trong lý thuyết đấu tranh, do những luận lý kềm kẹp lẫn nhau, nhưng
khi lòng mở ra cùng yêu thương, làm sao còn hình ảnh thằng Mỹ nào trong
bố cục tình yêu đó? Người yêu của các anh là ai? Phần lớn là gái quê ở
Tuy An, Tuy Hòa, Quảng Trị, Bình Long... Những gái quê ngây thơ và mộc
mạc, do tác động của sau tuổi dậy thì, yêu thương tự nhiên như một nhu
cầu, những gái quê ít học đó làm sao nghĩ ra được mỗi nụ cười, mỗi bàn
tay trao nhau là nằm trong chu kỳ của quá trình đấu tranh cách mạng! Làm
sao giây phút đầy xúc cảm của những lần ân ái, của nụ hôn là lúc "ý
thức cách mạng về liên kết công-nông", trong công tác? Ôi các anh đã
dùng nhiều danh từ quá to lớn trong những hoàn cảnh không chút cần
thiết.
Người ta có thể lừa dối người khác hoặc chính mình
trong rất nhiều trường hợp, nhưng khi đến chốn riêng của tình yêu và
tình dục chắc chắn phải là những nơi cuối cùng để thành thật nhất. Nhưng
ở đây các anh quá khốn khổ, phải che dấu những đòi hỏi của tình dục và
rung động thiết tha của tình yêu; trước giờ chia tay đáng lẽ các anh
phải nói với người yêu những lời hẹn hò thân ái, phải nói nỗi niềm ray
rứt khi xa nhau... Đằng này các anh lại chúc người yêu -"Em ở lại vui,
trẻ, khỏe, đạt ưu điểm trong công tác để tiến bộ!" Các anh lại còn "quê"
hơn nữa khi hứa hẹn - "Ngày thanh bình em về quê anh ở miền Bắc, để
nhìn thấy Bác bên cành hoa!" Ông Hồ Chí Minh có là gì đâu mà sao anh
phải mang vác trong một lúc đáng lẽ mở toang hết cửa sổ lòng người. Thế
giới tình yêu hạn chế lắm, chỉ đủ chỗ cho hai kẻ yêu nhau, người thứ ba
nên gạt bỏ ra ngoài. Ấy, các anh lại bảo tình yêu thoái hóa tiểu tư sản.
Không, tình yêu "ý thức mạnh, công tác tốt" làm gì có thật, nếu có, thì
cũng chỉ có trong những tâm hồn khủng hoảng lệch lạc dục tính như của
các anh mà thôi. Ông Hồ cũng là một điển hình.
Thôi, mật khu xanh thẫm đó, hãy xóa bỏ chúng đi,
các anh hãy đi xuống miền có người, có tiếng cười, tiếng hát, lời trẻ
con ậm ừ sâu giấc ngủ đêm khuya.
Tháng 8-1967. Phong Điền.
No comments:
Post a Comment