AN LỘC,
Miền Đông không bình yên
Bỗng chốc thị trấn nhỏ về cực đông-nam phần cuối
con đường 13 biến thành địa danh vang dội toàn thế giới... Guernica,
Arden, Berlin của Thế Chiến lần Hai không còn ý nghĩa khi so với thị
trấn bề dài 1800 thước và bề ngang từ cửa Phú Lổ đến hàng rào phòng thủ
tiểu khu đo đúng 1000 thước. Trên diện tích bé nhỏ nầy, lại nhỏ hơn nữa
của những ngày “tử thủ”, khi thành phố “co” lại với khoảng 900 thước bề
dài còn lại-Một ô vuông cây số hứng chịu gần 60 ngàn quả đạn, đạn đại
bác bắn tập trung từ mười vị trí trở lên trong 100 ngày vây khốn. Thế
nhưng, An Lộc đã chịu đựng được. Quân và Dân ở An Lộc đã chịu đựng được.
Chịu đựng- Sức mạnh tự nhiên không bờ, không đáy- Với nó, trong đó,
Người Việt ngụp lặn miệt mài để tồn tại.
Sống! Thượng Đế ban món quà hiếm hoi quý giá này
cho dân tộc ta quá khó khăn, hẹp lượng. Chỉ được sống, đám dân và lính ở
An Lộc đã phải căng mình hứng chịu dài cơn bão săm sắp tiếng nổ và mảnh
thép, trong ba tháng. Họ lên đến những “đỉnh” đau đớn chóng mặt, như từ
một độ cao hai trăm thước, người mẹ sẩy tay đánh rơi đứa con khi trực
thăng chao mạnh. Cái chấm nhỏ bé tội nghiệp rơi dần dần vào một cõi xa
xăm mất hút...Không nghe được tiếng động của thân thể trẻ thơ đập mạnh
trên đất đá. Không có tiếng thét bi ai của người mẹ mất con... Chỉ âm
động phần phật cánh quạt phi cơ và gió bạt trên không gian im lặng. Từ
đỉnh cao hai trăm thước đến vực sâu hai thước giữa lòng đất đỏ lạnh
tanh, người cha bình thản ngồi xếp ngay ngắn, thẳng hàng hình hài năm
đứa con và người vợ, sau khi đã đặt tay chân đúng vào thân thể của mỗi
đứa.
Nỗi đau đớn dài như con đường 13 từ An Lộc về Chơn
Thành. Lai Khê, Bình Dương, An Lộc, Lộc Ninh... Tên đặt ra nghe sao quá
thê thảm, tội nghiệp, làm gì có “bình an” nơi miền Đông tàn khốc này...
Tất cả chỉ là ước vọng. Nói thật hơn, chỉ là những hư vọng khó có lần
hiện thực- Ảo giác mù mờ khi con người đã đến đáy khốn cùng. Chạm tay sự
chết.
Trong qui ước truyền tin quân đội, chữ A được đánh
vần là “Alpha” hay “Anh Dũng”.An Lộc cũng bắt đầu với chữ A, thế nên tôi
gọi “An Lộc là Anh Dũng”; tĩnh từ này đã được dùng quá nhiều, đến độ
nhàm chán, nhưng ngoài nó ra không còn một danh từ nào xác thực và đúùng
đắn hơn. Phải, An Lộc là Anh Dũng. Chiến đấu ở An Lộc- Sống ở An Lộc-
Chết ở An Lộc - Tất cả đều trùng trùng tràn ngập, vây kín, kích động bởi
tính chất anh hùng. Tôi không nói quá lời, với chân thật của người cầm
bút và tấm lòng giản dị của người lính, xin xác nhận lại một điều: An
Lộc - Anh Dũng. Yếu tính của thành phố, người và sự kiện nơi An Lộc là
tỉnh từ giản dị đầy đủ kia.
Mười năm kinh qua trận địa, bao nhiêu trang sách về
binh sử đã được đọc, tất cả đều bị An Lộc vượt xa, vượt một tầm quá lớn
mà không một trận chiến nào có thể bén gót được. Kiến thức quân sự, ý
niệm chiến tranh, tất cả bị đổ nhào vô nghĩa, vô dụng với An Lộc. Chắc
chắn như thế, nếu ai hằng đến sống, chết cùng với nơi chốn ấy một lần.
Những “huyền thoại” về An Lộc đã được khai thác, nhưng không hết. Những
người kiệt liệt của An Lộc đã được nhiều nhắc nhở nhưng chưa đủ. Tôi nối
tiếp công việc này vì An Lộc không những chỉ có Tướng Hưng với các
Trung Đoàn 8, 9, 48, 52 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh; Đại Tá Huấn với Liên Đoàn
81 Biệt Kích Dù; Liên Đoàn 3 BĐQ, và Đại Tá Nhật với thành phần cơ hữu
Tiểu Khu Bình Long. Ngoài những lực lượng này, còn có Lữ Đoàn I Nhẩy Dù,
đơn vị tham chiến từ ngày 7-4, bắt tay An Lộc lần một vào ngày 16-4 và
lần thứ hai sau trận đánh trên tất cả các trận đánh, Tiểu Đoàn 6 Dù
“clear” hai cây số còn lại vào đến Thanh Bình (hay đồn điền Xa Cam)
trong “bốn mươi lăm phút chiến trận”.An Lộc được “bắt tay” lần thứ hai
lúc 17g45 ngày 8 tháng 6 năm 1972.
Quê hương của loài nai,
Đường 13 chạy từ ngã ba Chơn Thành đến An Lộc đo
được 30 cây số, tiếp tục về hướng Bắc thêm 18 cây số nữa là Lộc Ninh,
bên kia biên giới là Snoul, qua Snoul con đường ngã theo hướng Tây-Bắc
để tới Kratié, nằm cạnh bờ Cửu Long; nép bên bờ trái con sông, đường
chạy tiếp về phía bắc để gặp StungsTeng, vị trí chiến thuật quan trọng
của đường giây ông Hồ từ Bắc vào. Đoạn này có thêm một tên khác, “đường
Sihanouk” cho có vẻ đại đồng nhưng thật ra cũng chỉ là của anh Hồ cộng
sản. Khởi đầu cuộc chiến “Đông Dương lần thứ Hai”, những công thầnđầu
tiên của Trung ương Cục Miền Nam đã lần mò, tìm kiếm, ráp nối lại con
đường... Bắt đầu từ vùng suối Đá, suối Chà Là, suối Ma vùng Bình Long,
Phước Long, băng qua biên giới, đến những “mật khu” trong tương lai sẽ
vang danh theo chiều rộng thế giới: Lưỡi Câu, Mõ Vẹt. Năm 1970, đại quân
Miền Nam từ Bình Long, Tây Ninh, đồng loạt xua quân qua biên giới; cánh
quân cực bắc của lực lượng vượt biên đã có lần đi xa quá Snoul để đến
gần Kratié. Cộng quân tan nát, đổ vỡ toàn thể hạ tầng cơ sở, kho tàng,
trọng điểm tiếp liệu và căn cứ trung ương. Hai năm sau, những ngày đầu
1972, một lực lượng cộng khác, thứ cộng nguyên gốc, theo một kế hoạch
được bảo mật tinh vi, chuẩn bị yểm trợ cho mục tiêu chính trị, từ miền
Bắc xuôi theo đường 13 vượt qua Snoul cùng ào vào Lộc Ninh với 3 sư đoàn
chính qui thượng thặng, sau khi được giàn đại pháo 130 đã dọn sẵn
đường. Sau Lộc Ninh là An Lộc. Và thị trấn nhỏ bé của miền cực đông-nam
Nam bộ, bắt đầu co vào trong một thế gọi là “tử thủ”. Địa ngục có thật
bắt đầu từ ngày đầu tháng 4-72 ở đây. Nơi An Lộc.
An Lộc không phải là thị trấn, thành phố, thật ra
chỉ là thị xã tỉnh Bình Long, đồng thời cũng là quận lỵ Quận An Lộc, tức
Quận Châu Thành của tỉnh. Tỉnh gồm ba quận, Lộc Ninh cực bắc, An Lộc
giữa và Chơn Thành phía nam. Tất cả cơ sở hành chánh đều nằm trên con
đường 13, con đường lớn phẳng phiu chạy thẳng theo hướng Bắc-Nam, vạch
một đường đen thẫm giữa rừng cao su xanh lá, nổi bật trên màu đất đỏ nâu
mịn màng đẹp đẽ. Đỏ nâu cũng là màu máu khô, đường 13, con số của sự
xấu - Định mệnh đã định rõ: Con lộ mang số tử thần và màu máu thẫm - Hai
cuộc chiến tranh chứng tỏ có một Thượng Đế nhẫn tâm khắc nghiệt đã sắp
đặt sẵn điêu linh cho nơi chốn, lẫn người. An Lộc, tên nghe thuần hậu
hiền lành, như cảnh tượng đàn nai chạy tung tăng trên đồng cỏ tranh mượt
sóng. Đàn nai sống no đủ bình yên, được che chở bởi tàng cao su, rừng
bạt ngàn xanh im bóng nắng và hàng vạn con suối mang đủ các địa danh
Việt, Miên, Thượng... Những giòng suối đầu tiên của sông Bé ở phía đông
và sông Sài Gòn ở phía tây. Bình Long- Quê hương loài nai nằm giữa hai
con sông trải dài trên một bình nguyên bao la,miền Đồng Nai thượng không
những chỉ là một vị thế tốt, còn là chiếc nôi nuôi dưỡng quốc gia với
tài nguyên thiên nhiên phong phú, quý hiếm. Đất rộng mênh mông trải dài
chập chùng đồi thấp đến tận Biên Hòa, Gia Định. Đất giàu đẹp, uy nghi
như hãnh diện bất tận quê hương. Nhưng, đúng là quê hương khốn nạn. Quê
hương gắng chịu tai ương của nhân loại. Quê hương nguy khốn, ngặt nghèo.
Quê hương lửa dậy và Bình Long hừng hực tro bay. Nơi sự sống không còn
mặt đất.
Địa ngục trước mặt,
Khi đứng trước An Lộc, dẫu kiễng chân, mở to mắt,
tôi cũng chỉ thấy được một tòa lầu cao, ngói đỏ, con đường hơi ép trái
trước khi vào thành phố, chiếc tăng T54 nằm bên vệ đường, che khuất một
phần không gian. An Lộc cách một khoảng 1700 thước, nhưng sao đã thấy
từng cơn rung trong lòng, đã thấy thái dương giật giật.Đâu phải chiến
tranh chỉ có ở trong đó, nơi tôi đứng, năm mươi sáu xác chết của C7, C8
(đại đội 7, 8) của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 275, Công Trường 7 đang nằm
chật trong các công sự phòng thủ; nơi đây cũng có hai T54, ba PKR 79 nằm
chúi đầu xuống hố bom, bộ máy bị tan nát vì lựu đạn công phá. Nơi tôi
đứng, chỉ mười lăm phút trước, Đại Đội 62 Tiểu Đoàn 6 Nhẩy Dù đã xung
phong cú chót bắt tay với Đại Đội 81 Tiểu Đoàn 8 Nhẩy Dù. Lần bắt tay
vinh quang của quân sử người Việt phương Nam. Nhưng, nơi tôi đứng cũng
dậy mùi người chết gây tanh trong gió...Chiến trường nơi đây cũng đã quá
nặng độ, nào cần vào đến trong kia.Nhưng An Lộc nơi xa 1700 thước ấy
lại gây cho tôi cơn đau đớn giật ngược, người cồn cào nóng rực tưởng như
đứng trước một người thân vừa ngã chết!
- Tôi vào trong đó nghe anh Năm? Tôi hỏi trung tá Đỉnh, tiểu đoàn trưởng 6 Dù.
- Khoan, mai sớm hẵn hay, đợi đi, từ thằng 8 (tiểu
đoàn 8) vào trong kia đâu có yên, nó pháo chết cha mày. Chết lại không
có được “tuyên dương công trạng” nữa,
- Ừ vậy thôi, ngày mai.
Đêm xuống thật nhanh trong rừng, rừng cũng chỉ là
chữ để gọi tên một vùng cây, vì ở đây rừng chỉ còn những thân cây cháy
đen tua tủa dựng lên trời với cành khô không lá. Cây ngổn ngang và rừng
điêu tàn. Bom đánh xuống cháy một xóm nhà vốn là sự thường trong chiến
tranh, nhưng đốt cháy hẳn một cánh rừng bao la thì chỉ có ở Việt Nam.
Nơi thiên nhiên biến dạng bởi lửa đỏ. Tắt lửa, trời tối thẫm, vài viên
đạn đại pháo cầm canh điểm giọt dài từ bắc An Lộc đến cuối nơi đóng quân
của Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Lần đầu tiên tôi dự trận chiến
“bắn quấy phá” do pháo của Cộng quân.Ưu thế hỏa lực vùng này không cần
phải xét thêm, địch hơn hẳn ta một chặng đường dài, quá dài không theo
kịp. Trời sáng tôi sửa soạn hành lý để dông. Có tiếng người gọi 64
(Đỉnh) ở trong máy. Tiểu đoàn trưởng5 Dù ngỏ lời chào mừng Tiểu Đoàn 6,
-Ông bắt tay được với tiểu đoàn 8 là tay cừ,tụi này đợi cả hai tháng, chả có ai nắm được tay mình, mỏi bỏ mẹ...
- Hì... hì, Đỉnh cười thích chí. Hiếu khóa 14, Đỉnh
15 Đà-Lạt, cùng là dân năm 54 “mang rau muống vào Nam diệt thù”, nay
gặp được nhau giữa rừng chiến trận, câu chuyện vang vang những lời thống
khoái... Có Nam Xương (Danh hiệu truyền tin trước kia của tôi, Nam là
tên, Xương nghĩa là không có... thịt) lên đây với tôi, 55 (Hiếu) có muốn
gần nó không?
- Đâu đâu, cho tôi nói chuyện với nó một chút, lâu không được nói chuyện với dân civil!!Chắc giọng nó “thơm” lắm.
Tôi cười ngượng ngùng, có một chút xấu hổ làm cứng
mặt, đàn anh của tôi đã nói thật. Nhu cầu được gặp và nói chuyện với
người lạ là một phản ứng thông thường của người lính miệt mài torng rừng
rậm. Bao nhiêu lần tôi cũng đã có cảm giác này.Chui rúc mãi trong rừng
sâu, đóng quân ở nơi hoang dã, khi thấy được một con đường, dù chỉ là
loại đường đất trải đá dẫn đến một làng xóm cũng gây nên cảm giác ấm áp
trong lòng - Cảm giác sống giữa nơi có người, không lẻ loi... Gặp mặt
người, ước muốn sao nghe quá cay đắng, nhưng chính là một hạnh phúc tội
nghiệp mà chỉ có người lính trong chiến tranh mới cảm thấy.
Tám trăm thước từ tiểu đoàn 6 đến khu vực tiểu đoàn
5 tôi đi hơn nửa giờ...”Mày đi qua đó thì coi chừng, có hai hướng pháo,
một ở tây-bắc, một ở đông-nam. Nếu ở hướng đông-nam lại thì không sợ,
chỉ sợ hướng tây-bắc, khi nào nghe pháo tới thì đứng xây lưng vào cây
cao su hoặc nhẩy xuống hố”.Đỉnh dặn dò tôi trước khi vào vùng pháo.
- Anh coi thường tôi quá, cũng đã là Đại Đội Trưởng Đại Đội 93 Tiểu Đoàn 9 từ 1965 chứ đâu phải là dân cù lần chưa đánh giặc,
- Tại vì mày đeo cái máy ảnh, tao cứ tưởng mày làm báo thứ thiệt!!
- Báo quái gì, giang hồ chơi vậy thôi, tôi dọt, về
viết bài bốc anh. Rừng không nắng, đất đỏ tung tóe, cây gẫy đổ chắn lối
đi, xác Bắc quân chôn tập thể ngổn ngang gò đống, pháo rời rạc rơi, cứ
năm phút từng cặp một... Tôi cũng nhiều phen tìm hố để ẩn nhưng người
làm sao nhanh hơn đạn, khi đứng được trong hố thì đạn đã chạm nổ rồi!!
Mới hơn một năm đã quên bố hết phản ứng... Chẳng bù năm xưa khi trái đạn
đầu tiên vừa nổ ở vùng phi quân sự, tôi đã ở nguyên con trong hố đào
bằng nón sắt! Mình hết thời lính rồi.Tôi lẩm bẩm nhắm hướng tiểu đoàn 5
đi mặc kệ pháo rơi trên mặt lộ... Nếu nhỡ mình chết ở đây thì với tư
cách gì nhỉ?Dân cũng không, lính chẳng phải.Không có một điều gì kéo tôi
đến đây, không lẽ để lấy tài liệu làm “tác phẩm”?!!
Mồm ngậm điếu thuốc, tay bỏ túi quần, tay giữ máy
ảnh, tôi cũng lạ với mình trong phút giây “đạt đạo” này. Đời là sự vô
thường!! Tôi luận lung tung trong đầu khi bước chân đi qua vùng rừng
được lính Nhẩy Dù đặt danh hiệu “bãi pháo”. Pháo là pháo kích, đại pháo
của Cộng. Hơn ngàn người dân An Lộc đã chết trên tám trăm thước ngắn này
trong những ngày trước khi họ cố bỏ nơi đỏ lửa để xuôi nam... Gạo xấy,
tay nải, nón, guốc còn lác đác đầy khoảng rừng.Chụp hình được hết những
mảnh vụn này không? Tôi tự hỏi khi loay hoay điều chỉnh ống kính. Chẳng
thấy được gì, thôi vậy.Tôi xếp máy đi hết quãng đường.
Đến khu đóng quân của tiểu đoàn 5, chẳng có người
lính nào trên mặt đất, pháo đang nổ ngoài đường. Dứt pháo, những cái nón
sắt từ từ nhô lên khỏi nắp hầm, hầm dưới đất, nắp hầm khum khum như
những nấm mồ nhỏ... Cảnh tượng giống như đàn còng gió khi thấy người đi
đến vội tụt xuống cát trên bãi biển. Những người lính vừa nhô lên thấy
tôi nhoẻn miệng cười.
- Báo hả? Có thuốc lá không?
- Chẳng phải báo beo gì cả! Thuốc lá còn mỗi điếu ở mồm đây, hút không?
- Hút! Người lính thò tay lấy điếu thuốc không chậm một giây.
Đến hầm ông Hiếu, phải một phút kêu gọi, ông Tiểu
Đoàn Trưởng thâm niên nhất của Nhẩy Dù mới “bò” ra khỏi ổ... À Toa, đợi
đấy, moa đãi toa hộp bia và bánh do bà vợ vừa gởi lên. Tôi cởi áo giáp,
máy ảnh, nhận hộp bia vàng sánh.Như những người lính im lặng chung
quanh, tôi bình thản uống từng hớp bia hạnh phúc. Đến một độ nào đó con
người “bão hòa” với đau đớn, trở thành trơ, mất xúc cảm và vô vi như một
kẻ đạt đạo cao siêu. Tôi chỉ mới qua vài ngày chiến trận, chỉ mới ở vài
ngày dưới vùng “hỏa tập tiên liệu” của địch, đầu cũng đã cứng và lòng
phẳng trắng vô tri.Uống, bia lúc nào cũng ngon và ngọt, thở một hơi
thuốc thơm lên vòm trời âm u.Ầm!Ầm!Lại hai hỏa tiễn, tôi thụt đầu vào
lại hầm, hộp bia sóng sánh trào ra chút bọt nhỏ.Uống thật say đắm, cạn
giọt cuối cùng, biết đâu lát nữa khi vào An Lộc lại bế ngay một quả.
- Lâu quá moa không thấy mặt trời, cao su ở đây còn
lá, ngày lại nhiều pháo kích, ở luôn trong hầm cho tiện.Ra khỏi hầm
chẳng làm được gì, nhỡ có chuyện gì lại thiệt cho đơn vị.Người tiểu đoàn
trưởng số 1 đã nói thế, trận chiến này quả thật không còn chỗ để khai
sinh anh hùng. Đánh nhau bằng lưỡi gươm, người làm tướng thuở xưa có cơ
hội chứng tỏ được mưu lược, can đảm và tài nghệ riêng mình.Đánhbằng
gươm, lối đánh mã thượng, quân tử, đánh đối mặt, và chết không ân hận.
Chiến tranh hôm nay với đại pháo xa hàng chục cây số và viên đạn vô tình
nổ chụp. Người thụ động toàn thể dưới vũ khí tàn ác vô nhân. Chiến
tranh không những chỉ hủy diệt đời sống. Chiến tranh còn làm mất giá trị
con người.
Mãn thiên hoa vũ,
Vượt hẳn hết ý niệm từ trước, bỏ xa trí tưởng tượng
đã xếp đặt, An Lộc không “hư” từng khu, không đổ từng khóm, An Lộc vỡ
nát, vỡ tan tành, vỡ vụn...Không còn sự sống trên mặt đất, không còn dấu
vết người trên mặt đất, thành phố chìm dưới hầm, sâu dưới đất, càng sâu
càng tốt như một ổ mối khổng lồ dưới lớp đất bùn bề mặt. Vòng đai thành
phố bây giờ đã nới rộng lên phía Bắc đến gần được sân bay.Những ngày
“tử thủ” đường phòng thủ này rút xuống ngang hoành độ 88, từ đây kéo
thẳng đến cực nam bãi trực thăng B45 đo được 800 thước và bề ngang được
500.Một diện tích rộng chưa tới cây số vuông đã có lần nhận được 8000
viên đạn như trong đêm 11 rạng 12 tháng 5; 8000 viên đạn loại xuyên phá
chưa kể hỏa tiễn và cối tung hoành trên mảnh đất chỉ bằng khu vực Đa
Kao.Mỗi thước vuông đất phải nhận hơn 10 trái đạn.Đạn Delay xuyên xuống
đất hơn một thước mới nổ.Không cần phải trúng ngay hầm chỉ cần nổ bên
cạnh cũng đủ xô ngã vách hầm. Dân và lính thụ động co rút dưới hỏa ngục
đổ từ trên trời xuống trong hơn hai tháng. Pháo không phải từng cơn,
từng giờ, từng loạt, pháo đầy trời như mưa, pháo ào ạt như gió, pháo kín
mít như mây. Pháo không vạch từng đường như Mậu Thân, pháo không đi
từng luồn như ở Hạ Lào. Pháo và trời chan hòa trộn lẫn như mưa bay giăng
giăng che kín không gian của những ngày xuân mưa bụi. Dưới bầu trời đầy
những đóa hoa tử thần đó. An Lộc co quắp, vật vã, tan thành mảnh, phất
phới bay như tờ giấy xé nát được tung lên giữa trời lộng gió. Một hỏa
tiễn nâng chiếc xe jeep bay bổng, khối sắt nặng 1/4 tấn vừa rơi xuống
chạm mặt đất lại bị thổi ngược lên cao, nhẩy lên một mái hầm như hộp
thiếc nhỏ bị quay cuồng vì những viên đạn tinh quái chính xác trong phim
cao bồi Mỹ.
Pháo đầy trời nên sự chết cũng ở khắp nơi, chết lan
như cỏ gà, chết tự nhiên, như sống thì phải chết. Chết ở An Lộc là hiện
tượng tất nhiên. Gia đình bẩy người, hai vợ chồng năm người con cùng
trú trong một cái hầm. Hầm đào dưới nền nhà trên lót vài tấm ván và một
lớp bao cát. Tất cả đo được một thước bề dày. Tội nghiệp, dân đâu biết
được cường độ công phá của đạn 130 ly. Nên, ầm một tiếng ngắn ngủi, cái
nắp hầm tội nghiệp đó tung lên vỡ tan từng mảnh nhỏ như những hạt nước
tóe lên khi hòn đá nặng rơi xuống... Chết! Sáu xác chết được một người
còn sống chắp nhặt, vá víu để xác người mẹ không có tay người con, để
thằng anh không lẫn chân thằng em. Người cha chậm rãi, từ tốn bình thản
đi chọn lựa từng phần thân thể một của mỗi người thân yêu, còn gì trong
đầu óc khô cứng đó. Không còn gì, chẳng nên gọi đó là óc não con
người.Người đã chết. Con người thật đã chết toàn phần ở An Lộc.
Chân dung người giải phóng,
Trên đây là những hình ảnh của những “nội” An Lộc,
chung quanh An Lộc từ những ấp cực tây như Phú Bình qua cực đông Phú
Hòa, xuống phía nam như Thanh Bình, Văn Hiến... Những tên ấp nghe thật
hiền, hiền lành tội nghiệp như ước vọng nhỏ nhoi của người dân khổ...
Dân cạo mủ, dân làm nhà máy mà hơi nhựa cao su đã thấm đẫm qua lớp da,
bao quanh thớ thịt tại nên một sắc thịt nâu nâu, nhạt nhạt có cảm giác
rút cứng nhão nhoẹt khi chạm phải... Nhưng những người dân tồi tàn này
đã bị kéo ra khỏi thôn xóm cuối đời - Họ là di dân từ Trung và Bắc vào -
chống nạng bế con, cõng cha mẹ đi dọc đường 13 hướng về Tân Khai, Tần
Ô, Lai Khê để đến Bình Dương, thiên đường yên ổn khốn mạt đang chờ đón,
che chở... Vì chỉ các Bình Dương trên mười cây số là Lái Thiêu, nơi có
lũ người được mệnh danh là “giới trẻ” đang đu đưa trên những chiếc võng
ni lông, võng cói, đút cho nhau những miếng sầu riêng, chôm chôm bằng
động tác của phim roméo và Julliette, bằng thứ nũng nịu hờn dỗi dưới
những tàng cây xanh im bóng nắng. Cũng dưới những tàng cây như thế này ở
Bình Dương cách đó không đầy mười phút Honda, những người dân An Lộc
ngồi chồm hỗm nhìn ra con đường ngập nắng, hướng về mạn Bắc, nơi quê
hương cuối đời đang đỏ lửaTay vẫn nắm chặt một mẫu vải vụn mà suốt bốn
ngày không rời bỏ... Mẫu vải mang hơi hám kích thước, biểu tượng cho đời
sống, niềm hy vọng ở quê nhà.
Người dân rời xóm làng để lại nơi chốn cho những
người ”giải phóng.”Họ đi từ Bắc vào, từ Thanh Hóa, Nghệ An xuống Đồng
Hới, băng qua biên giới dọc theo Tchépone, Mường Nông xuôi dần xuống
phía Nam, rẽ vào Kontum hay mặt trận B3 hoặc tiếp tục xuống vùng Lưỡi
Câu, Mỏ Vẹt trước khi qua lại biên giới để vào Lộc Ninh, cách An Lộc 18
cây số - Hành lang di chuyển mở rộng không chướng ngại.Họ đến An Lộc từ
đầu tháng Tư sau sáu tháng di chuyển và bắt đầu “được” xích vào cần chân
ga thiết giáp, xích vào cây để bắn máy bay và xích vào cổ người bên
cạnh để đi hết lời nguyền “Sinh Bắc Tử Nam.”Ôi, nhưng đó chỉ là bề
ngoài, một bề ngoài giả dối tội nghiệpđể che chở phần tinh thần đổ nát,
tan vỡ trong kinh hoàng, khiếp đảm.Làm sao không sợ được, vì trong đêm
11 rạng 12 tháng 5, sau khi được 8000 quả đạn dọn sạch đường, 3 trung
đoàn, mỗi trung đoàn quân số 3 Tiểu đoàn đầy đủ được“tùng thiết” với một
đại đội chiến xa thuộc các trung đoàn 203 và 303 thiết giáp, tưởng sẽ
san bằng An Lộc, giết toàn thể lính Mỹ Ngụy, không để sống một người
dân.Mười bẩy “pass” B52, mỗi “pass” đi qua do 3 phi cơ thực hiện với 42
quả bom 500 ký, 24 quả bom 250 ký. 17 pass bom sát nách An Lộc 600
thước, chiếc hầm béton của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn I Dù “di chuyển” theo cơn
rung của bom. Bom chiến lược, với nguyên tắc chỉ thả cách quân bạn khi
có khoảng cách an toàn từ hai cây số trở lên. Cuộc đánh bom phải do
chính Trung Tướng James Hollingswoorth của Vùng III điều khiển. Và chỉ
một “pass” bom ở Trãng Bàng cũng đủ làm cho thành phố Sài Gòn chuyển
động, cách nơi đánh bom 30 cây số đường chim bay!Con người nào chịu nổi
17 pass bom đi trên đầu, bao chung quanh không phải từng lớp nhưng từng
chồng, từng tảng âm thanh mà cường độ nằm ngoài sức tưởng tượng... Sợ,
phải sợ, dù người có được đúc bằng thép, thép cũng chảy, người có uống
thuốc liều, thuốc cũng phải tan, Marx, Lénine, Hồ Chủ Tịch, Võ Đại tướng
chẳng còn là cái quái gì trong khối không gian điên đảo tàn khốc đó -
Sợ, nên dù có bưng bít, che dấu trong lá thư gởi về gia đình ở Nghệ An,
Nguyễn Đình Nghiêm, ám danh quân số và đơn vị là HT 810042 SZ 7, sau một
thời khuyên nhủ gia đình “công tác tốt để đạt được tiêu chuẩn... Em Ba
hãy gắng học tập để tiến bộ đúng sự hướng dẫn của Đảng...” Cuối thư
không thể cầm lòng được, Nghiêm viết thẳng: “Điều kiện chiến trường rất
gian khổ, vô cùng khó khăn, thư có khi 2, 3 năm không viết được, nên gia
đình cha mẹ chớ trông thư con”.Viết thế nào được dưới 17 pass B52 đó?
Viết thế nào được dưới AC 130 Spector bằng Ra-đaba quả 105 ly một?!
Không viết thư được là chuyện bắt buộc. Không thể sống được là điều tất
nhiên. Làm sao có thể sống được hở người Cộng Sản? Làm sao để sống và
chiến thắng hở ông Võ Nguyên Giáp - “Thiên tài ngu muội” của lịch sử dân
tộc. Lỗi lầm này mấy biển rửa cho tan. Oán hờn chồng chồng cao ngất.
Ở đây, mặt trận với tàn khốc ngập trời, hậu phương
lớn ngoài Bắc thì được “bồi dưỡng” với hạnh phúc,“Tết này em sẽ mua về
cho mạ 1, 5 cân đường, hợp tác xã ủy nhiệm cho gia đình người đi nghĩa
vụ quân sự số lượng đường với tiêu chuẩn đó.Mạ có nói đem bột, trứng qua
bên này, nhưng như vậy thì tốn quá... Em sẽ làm 50 cái bánh và một gói
chè và mạ đã nhất trí...” Trời đất hỡi, còn tội nghiệp nào nữa hả trời,
ba năm đi làm giải phóng được “hỗn hợp vui vẻ” bằng phần thưởng 1, 5 cân
đường!!Anh “giải phóng” cho ai và để làm gì hở anh Nguyễn Văn Hưu (số
quân, đơn vị 271003TB004)?! Anh giải phóng đồng bào miền Nam để “nhất
trí tiến bộ xã hội” với 1, 5 cân đường sao anh?!
Trước An Lộc, không có một luận lý nào có thể tồn
tại được, chỉ còn tiếng thở dài bi thiết để nén khối đau ra lồng ngực và
chớp mi mắt mọng cay tưởng rơi giọt nước vô hình. Nhưng, khóc cũng
không nổi.
Chiến trường lộ mặt,
An Lộc tàn khốc, nhưng đối với quân dân Miền Nam,
sự tàn khốc này mang một nét bi tráng, hào hùng. Đây là khối lửa nung
đốt và tôi chín người. An Lộc bi thương - Bi thương ấy thúc giục con
người cố đạp đổ định mệnh, vượt khỏi định mệnh tàn ác để tồn tại, tồn
tại trong tự do chỉ riêng một lần trong đời cảm thấy khi từ bỏ tài sản
cuối đời băng mình đi dưới trời đại pháo. Chỉ vì muốn sống tự do người
dân An Lộc mới bất chấp tất cả, mới vượt qua tất cả, đi trên cái chết,
trong cái chết để thể hiện ý hướng trừu tượng mà suốt đời dài không một
lần lý luận. An Lộc dũng cảm kiên cường đứng vững chắc trên điêu tàn, vĩ
đại như ánh lửa soi đường cho cả dân tộc. để lịch sử mãi ghi nhớ, lòng
người hằn in sâu. An Lộc, cây cổ thụ quê hương còn lại sau cơn Đại Hồng
Thủy máu lửa. Người Miền Nam nhìn An Lộc như tấm gương soi rõ chân dung
bình lặng cao cả của mình.
Và chiến trường này cũng có đủ mặt trái của nó. Đó
là một chiến trường phi nhân, vô lý và tuyệt vọng. Chiến trường hư
không. Chiến trường chết, mồ chôn ảo vọng và bạo ngược. Người cộng sản
hứng hết mặt trái khốc liệt này.
Bỏ đi những sự kiện chiến thuật như Bắc quân đã có
đủ ưu thế chiến trường, gần hậu cần, hành lang chuyển quân rộng rãi, dễ
di chuyển, ngụy trang tốt, tiếp vận, tiếp liệu đầy đủ và nhất là được
yểm trợ bởi một hỏa lực khủng khiếp, một hỏa lực vượt hẳn mọi hỏa lực bộ
binh dã sử dụng của quân sử thế giới. So với Mậu Thân, Hạ Lào, chiến
trường Trị-Thiên, Kontum... An Lộc vượt quá xa về hỏa lực. Không có một
trận địa pháo nào dồn dập và nặng nề như trên chiến trường nhỏ bé An
Lộc. Sẽ không bao giờ có nữa, chắc chắn như thế. Nhưng dù đã có được hết
ưu thế chiến thuật, ba công trường 5, 7, 9, được tăng cường hai trung
đoàn chiến xa 202 và 203, cộng quân vẫn không “dứt điểm” An Lộc. Mặc dù
cho đến hôm nay khi viết những chữ này (20-6-72), địch vẫn còn hoạt động
mạnh tại Tầu Ô, Đức Vinh và An Lộc còn nằm trong vùng hỏa tập tiên liệu
của hai hướng pháo Tây-Bắc, Đông-Nam. Nhưng mục tiêu chiến thuật (nhấn
mạnh nghĩa chiến thuật) của chiến dịch đã bị gãy đổ. Hoàn toàn gẫy đổ.
Nhưng, mặt trái chiến trường cũng không phải ở lần
thất bại quân sự này. Mặt trái chính là lần tan vỡ “huyền thoại không
tưởng” về bộ binh Bắc Việt. Bởi nơi đây đã minh chứng, không hề trên mặt
trận lại có một loại lính năng lực tác chiến xuống thấp đến thế. Khả
năng tác chiến kém có thể do vì thiếu huấn luyện, thực tập, chưa đủ kinh
nghiệm trận địa... Nhưng ở đây, yếu tố chính để kết nên căn bản cho
toàn bộ yếu kém này là tinh thần Bắc quân: Khối hư không thất vọng và
chán nản cao độ. Ở mặt trận Trị-Thiên, binh sĩ Bắc Việt khi vượt sông
Bến Hải tràn xuống Đông Hà, Quảng Trị dù sao vẫn còn mang được tâm lý
Đánh trên quê hương, nơi đất nhà, vùng thổ ngơi còn dính líu với Miền
Bắc. Họ lại được thúc đẩy thêm “ý niệm đi giải phóng, chiếm đóng” cộng
sự hận thù đối với dân chúng Miền Nam, nhất là dân cư ở các thị trấn,
thành phố. Tâm lý này còn nguyên cường độ nên khi vào Quảng Trị, toán
lính Bắc quân vẫn giữ được tính chất cực đoan, cường bạo để thúc dục
tinh thần và nâng cao khả năng tác chiến - Khả năng giết dân và quân dân
Miền Nam.Ở chiến trường Kontum, tuy trải qua một chặng đường dài di
chuyển, lại chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, tinh thần Bắc quân vẫn
chưa hẳn hoàn toàn tan vỡ vì các trận đánh ở dãy cao độ Delta, Charlie,
Hotel phía tây Quốc Lộ 14, ở đèo Chu Pao không có sự hiện diện của dân.
Đánh trong rừng, người lính khai triển tối đa khả năng chém giết, không
bị ghê tay bởi những cảm giác ân hận, lỡ lầm. Nhưng ở An Lộc thì khác
hẳn, Bắc quân từ mật khu bôn tập về mục tiêu mà dân nhiều hơn lính- Dân
dáo dác, sợ hãi, trốn lánh và chết thảm... Lòng người nào trong cuối đáy
không thoáng ân hận khi chính tay mình hạ sát kẻ tay không?! Thêm vào
đấy, các công trường 5, 7, 9 chỉ là chỉ danh của các sư đoàn “mặt trận”
có cán bộ và lính người Nam xen kẽ cùng những người từ phương Bắc đến.
So sánh đã xẩy ra, chuyện trò sẽ tỏ rõ, lính Bắc nhận được chân dung
đích thực của mình, biết rõ hành động phi lý khi rời bỏ quê hương từ một
chốn mịt mùng để dấn thân vào cuộc chiến tuyệt vọng.Tuổi 15, 16, 17 rất
dễ bị kích thích nhưng cũng mau mắn ngã lòng - Số tuổi trung trực, nhạy
cảm và thơ ngây. Lính Bắc ở mặt trận này bị phá vỡ toàn diện hệ thống
tinh thần vì chiến trường lộ mặt: Hàng ngày dân chúng vượt qua “bãi
pháo” qua Xa Trạch, Tầu Ô... vượt nỗi chết để chạy về phía lính Cộng
Hoà... Tất cả thực tế nầy như cánh tay nghiêng ly nước lã đầy. Lính Bắc
vỡ mặt, thấy mình kẹt trong chiến trường phi nghĩa, vô nhân đạo. Nhưng
quả muộn màn vì cổ đã bị xiềng vào đồng đội... Giờ báo tử cho bộ binh
Bắc Việt đã điểm.
Thư của người tình hư vô,
Di chuyển trong 6 tháng với cơm khô muối hột, dự
trận chiến vô vọng, lại có thêm hoàn cảnh để so sánh. Người dân miền Nam
và miền Bắc. Có thư viết về Bắc thú nhận: “Vấn đề bồi dưỡng tại chiến
trường lúc này đã tiến bộ, không còn thiếu thốn như ở thời gian di
chuyển (từ Bắc vào) nữa.”Được ăn ngon, thấy rõ dân tình, trạnh nhớ đến
gia đình nơi xa thiếu thốn, đường về không còn lối, lòng người lính Bắc
trẻ tuổi trùng hẳn xuống đến độ thấp nhất, trong cơn ngất ngư lại được
“bồi dưỡng” thêm bởi những giòng thư thương nhớ, cái nhớ trùng điệp như
Trường Sơn, mịt mù như rừng thẳm, nhớ tha thiết, nhớ giỏ máu, cắt da...
Nhớ và cảm thấy được hết nỗi tuyệt vọng của cuộc tình chia cách. Sức
mạnh nào để cầm cây súng, trái tim nào còn đập theo nhịp căm hờn. Người
lính Bắc hay gã lính xâm lược ngụy danh cay đắng trong chiến trường lộ
mặt, “Áp lá thư em vào ngực anh đọc đã mấy chục lần...”.Người tình hư
không đã viết vào nhật ký để trả lời cho bức thư tha thiết.Thư của Người
- gởi - Người.Người yêu dấu không bao giờ gặp lại. Những bức thư có
những nội dung như sau:
Anh Hưu thương:
Thế nào, hai Chủ nhật trôi qua có nhớ lắm không?Có
thể nói từ khi anh và em cùng nhau bắttayxây dựng vợ chồng thì hai Chủ
nhật này là hai Chủ nhật khó khăn và nặng nề vượt qua lắm anh hè. Em
biết lắm rồi, trong những giờ phút đó anh muốn thét lên thật to để làm
sao ôm lại những lời nói của anh, rồi cùng anh nói chuyện, em cũng biết
lắm những bước chân đi trong những giờ phút đó nó như một con người
không có tri giác mà những bước 9di đó không hề biết đến, không hề nhớ
đến, đầu óc sẽ triền miên suy nghĩ, những cái gọi là kỷ niệm ở đời sẽ
hiện ra và bắt đầu như diễn kịch trước mắt.Thật đúng tâm trạng của anh
lúc đó em sẽ đoán được, vì sao em lại biết tài như thế?Vì em đã nằm giữa
trái tim anh, dòng máu của anh đã cùng chảy theo nhịp thở của em, cho
nên dù sao, dù ở phương trời nào em đều đoán được.
Thế nào rồi đó, chân sưng to không bằng cái “cột
đình” chưa?Vai đã lột những lớp da bên ngoài gọi là “hồng hào” chưa?Có
đau lắm không anh?Có hỏi họ để tìm lá dầu ngoại khoa mà bóp chưa, nhức
lắm anh hè.Anh Hưu ơi, em biết đi đường vất vả lắm rồi đó, ăn uống khô
khan như vậy có mua gì cải thiện đến không?Trân đường đi có xẩy ra đau
ốm gì không?Nghĩ đến đó em tê buốt cả người, càng thêm nhớ nhung suy
nghĩ, có sinh racái mụt nào để làm thêm đau đớn bản thân không?Vì mùa
này là mùa mụt của “đồng chí” đấy phải không Thủ trưởng.Hai chữ Thủ
trưởng nói cho vui vậy thôi, chứ không phải em mơ ước như vậy đâu
nhé.Thật ra tâm trạng của em chỉ mơ ước rằng sao cho ba năm nghĩa vụ
xong anh được an toàn cùng về với em, em muốn nhắm mắt làm sao thời gian
sẽ trôi nhanh đi và nhanh đi nữa để anh và em được về sống trong một
ngôi nhà nhỏ hẹp, để cùng nahu vượt qua khó khăn, cùng nhau hưởng những
hạnh phúc đẹp đẽ.Những hạnh phúc đẹp đẽ, những cái đó em nuôi một mơ
ước, một mộng đẹp, chứa đựng nó trong một khối óc, trái tim đầy
tìnhchung thủy của tình nghĩa vợ chồng đã nhen nhúm từ lúc đầu.anh ơi,
xa anh đi, em nhớ lắm, em thương anh lắm, anh nói, anh cười, anh trìu
mến thương, em làm sao quên được.Có ai hiểu thấu tâm trạng của em trong
những lúc nhìn vật của anh, từ nét chữ anh viết cho em, rồi đến cái nhìn
nữa... Chao ơi em muốn bấu lấy mà nhìn, nhìn mãi, nhìn vui nào cho chán
được.Anh Hưu ạ, nói mãi cũng không hết nhớ nhung của em lúc này đối với
anh, thôi em nói chuyện khác anh nhé...
Trên đây là hai trang đầu tiên của chị Nguyễn Thị
Hàng, giáo viên ở Nghệ An viết gởi anh Lê Văn Hưu địa chỉ là: 271003 TB
04, thuộc cánh quân của trung Đoàn 124 phối hợp với Đại Đội1/117 Trung
Đoàn 203 Thiết Giáp, không biết rõ anh ở đơn vị nào... Thư viết bốn
trang, tôi ghi lại hai trang đầu không sửa một nét, không thêm một
dấu... Đầu năng và tay run khi viết lại những hàng chữ trên, người yêu
Lê Văn Hưu của Nguyễn Thị Hàng đã chết, chết ngay tại trận đầu tiên sau
sáu tháng vượt Trường Sơn vào Nam giải phóng.Người yêu đấu đó đã chết,
làm gì còn “ba năm nghĩa vụ quân sự chấm dứt để anh về với em” hở chị
Hàng? Tình yêu, nỗi lo lắng của chị chỉ còn vang động trên hư không,
người yêu dấu rất thương của chị không phải chỉ bị nổi mụt, sưng chân,
trầy vai, cảm sốt.Anh Hưu đã bị chết bởi đạn, bởi bom, chết hai lần, ba
lượt, chết cháy, chết tan hoang, tiêu tán và tàn khốc.Không phải lỗi của
chúng tôi chị Hàng ạ, chúng tôi phải tự vệ để sống còn, cũng không phải
của anh Hưu, anh ấy cũng muốn ở lại bên chị để được “cười rúc rích với
nhau dưới lớp tơi lá,” để được ăn ngô vì “vườn ngô trước nhà đã được
mùa,” để được ăn cá và bánh do chị và mạ làm... Anh Hưu không muốn qua
đèo Mụ Già, không muốn qua Tchepone, Lao Bảo, anh muốn ở cùng chị để tay
nắm tay và “máu cùng chảy với nhau..”Tội này là tội của chúng nó - Lũ
đồ tể tay không dính máu, hồn cứng ngắt bởi quyền thế và danh vọng.Lũ
chúng nó say thứ nặng nhất trong tất cả mọi nỗi đam mê - Chúng nó say
danh, say tiếng - Trời hỡi, chút tiếng tăm vang động trên năm châu, trên
trăm ngàn tờ báo của mọi nơi đã làm con người biến dạng thành quỷ quá
dễ dàng thế sao?Lũ ngạ quỷ trầm luân mang danh người và chiêu bài cách
mạng giải phóng.Chính chúng nó, thứ thiên tài chết ngập đầy oan khiên...
Chị Hàng thân mến, tôi người miền Nam không biết được chị, nhưng tôi
cũng có một người yêu, một người vợ lo lắng đón chờ mỗi lần tôi bước ra
đi... Tôi đi ngắn, chỉ qua vài trăm cây số và về lại trong bình yên, anh
Hưu đi đường xa vạn dặm, chuyến đi vào mịt mùng, vào tan vỡ... Anh Hưu
không thể trở về, không bao giờ trở về được... Gởi lời chào đau đớn đến
chị, người đàn bà chờ đợi người chồng bộ đội không hề trở về - chị
Nguyễn Thị Hàng, ở ngoài Bắc, một vùng đất khổ quê hương tôi.
No comments:
Post a Comment