Chương 15: Những Ngày Thê Thảm
Phi
cơ hạ cánh xuống phi trường Qui Nhơn vào buổi chiều nắng gắt, hai tiểu
đoàn 3 và 5 Nhảy dù đang xếp hàng đợi về Sài Gòn, những người sắp đi hớn
hở ra mặt, trong khi chúng tôi, kẻ đến thay thế ai nầy trông khó đăm
đăm...
- Chúng mày ở đây bao nhiêu lâu rồi?
- Hơn ba tháng rồi đấy ông ạ, bố khỉ chẳng bao giờ đi lâu như vậy.- Cần ởtiểu đoàn 3 Nhảy dù trả lời.
- Tôi đi Pleiku một lần với ông, ông về nghỉ, bây
giờ ra lại, tụi tôi mới được về... Chịu khó đi, vi-xi ở đây có sư đoàn
Sao Vàng bị quần tơi tả hết, ông hỏi tiểu đoàn 3 coi, Việt cộng nó đầu
hàng buồn cười không chịu được. - Âu ở tiểu đoàn 5 nói tiếp.
- Ấy, vì đơn vị tôi mới thành lập thì phải lai rai
một chút xã hơi, nhưng chắc lần này phải trả nợ kỹ, mấy ông về là sướng,
ở đây lại bắt đầu mưa mới khốn nạn! - Tôi nói câu cuối cùng trước khi
lên xe.
Tiểu đoàn chúng tôi cùng tiểu đoàn 6 lên xe đến Phù
Cát. Xe chạy qua thành phố Qui Nhơn, thành phố nhiều lính ngoại quốc
đứng sau Đà Nẵng, Biên Hòa và Nha Trang. Không hiểu phải chăng là số
mạng, những thành phố nào tôi lớn lên và sống đều bị hư hại nhiều nhất.
Đúng là một cái số không may để thấy nơi chốn tuổi thơ bị loang lổ và
vấy bẩn. Đà Nẵng, thành phố ven con sông, dựa lưng vào biển, gió thổi
rịn mùi muối, con đường bờ sông xanh um lá me tây, lối về Trẹm, đường
Quang Trung, đường Lê Lợi phía gần trại định cư Thăng Bình vắng vẻ như
một nẻo về thơ mộng. Giờ tan lớp, học trò từ ba trường Phan Chu Trinh,
Nguyễn Công Trứ, Phan Thanh Giản đổ ra reo vui rộn rã như tùy bút của
Xuân Diệu... Xong con đường trở lại vắng vẻ, thấp thoáng một vài gã trai
về muộn sau khi chơi bóng rổ hoặc theo sau những tà áo trắng tóc thề.
Qui Nhơn, ngày tiếp thu 1955, tôi đến trong đêm khuya, mười hai giờ xe
qua thành phố như nghe lại tiếng trống hào hùng của người áo vải cờ đào.
Qui Nhơn, cũng thành phố này tôi tìm đến em, để thấy trong cơn say
choáng váng, ngọn lửa rực rỡ của tình yêu tàn rụi dần... Những quê hương
đẹp đẽ của tôi trong chiến tranh, dưới bàn tay của người bạn đồng minh
trở nên lòe loẹt dơ dáy. Chiến tranh phá vỡ tận cùng kỷ niệm.
Xe chạy qua khỏi thành phố dọc quốc lộ 1, cũng như ở
Nha Trang và Biên Hòa, những đống rác vĩ đại và những chiếc chòi tỵ nạn
lúc nhúc bên cạnh nguồn, đống sinh lực độc hại đó. Con đường từ Qui
Nhơn đến ngã ba rẽ lên Pleiku đang sửa chữa, từ đó trở đi loang lổ, nát
bấy như một con đường núi. Cầu bị sập được thay thế bằng những ống cống
kim khí lớn đặt theo dòng nước xong lấp đất thật chặt. Một dòng sông
được ép lại qua những lòng cống nhỏ. Với nhịp làm cầu này, tôi tin chắc
rằng danh từ "nhịp cầu" sẽ không bao giờ còn ở địa phương này nữa. Thôi,
chỉ cốt sự tiện lợi, chiếc cầu chỉ còn vang bóng như một vẻ đẹp xưa. Xe
đến Phù Cát, quận lỵ của người dân định cư với đói khổ tranh sống được
tính từng ngày, từng bữa cơm có được. Tiểu đoàn chúng tôi vào đóng ở khu
dân cư cách quốc lộ 1 một cây số, làng thật nghèo, đây là ngôi làng của
những người thủơ trước cũng có gia sản, nay vì chạy nạn giặc dã trốn ra
đây, họ thuộc về thành phần dân cư đi trước những vụ tị nạn tập thể.
Dân chúng không có nghề nghiệp nhất định, đi nhặt đồ hộp, rửa xe Mỹ, Đại
Hàn dọc theo quốc lộ. Một số con gái phần đông làm nghề bán nước ngọt
cho toán Công binh đóng dọc đường đồng thời đời sống khó khăn nên họ làm
luôn nghề bán ái tình cho các anh lính xa nhà bất kỳ ở nơi đâu... Trên
bãi cát, sau bụi cây, trên xe GMC, một đôi khi dựa vào hông xe... Chỉ
cốt sống được!! Người dân Phù Cát sống thật mệt.
Ngày 12 tháng Mười một, năm giờ sáng, tiểu đoàn
hướng về ngã Bồng Sơn, qua quận Phù Mỹ, trời còn tối, vượt đèo Nhông đến
đèo Phù Cũ, xe ngừng. Dàn đội hình, bỏ quốc lộ 1 tiểu đoàn bắt đầu tiến
quân về phía đông, bên trái là núi Chóp Chài, bên phải là đồng ruộng có
tiểu đoàn 6 và thiết vận xa cùng tiến song song. Quân đi chậm, nơi đây
một tháng trước, chúng tôi đã có dịp chứng kiến một tiểu đoàn của trung
đoàn 42 quần thảo với địch - làng Quang Nghiễm - mục tiêu thứ 1 hiện ra
cuối cánh đồng sừng sững như một pháo đài. Hàng trăm tà-vẹt đường rầy
được Việt cộng lấy từ đường xe lửa xuyên Việt mang về làm tuyến phòng
thủ. Hàng rào phòng thủ thật chắc do được lèn thêm thân cây dừa.
- Với hàng rào này nếu có tụi nó thì mình nát xương. - Lính bàn tán.
- Bọc lên trên núi để ép xuống, lỡ có đụng thì làm ăn được.
Giọng anh Ba "râu" oang oang trong máy. Đại đội 91
bắt đầu trèo lên sườn núi phía trái, đại đội 92 đi dưới đồng ruộng phía
tay mặt. Tiểu đoàn 6 bên phải chúng tôi đã chiếm được mục tiêu đầu của
họ, tiểu đoàn chúng tôi được lệnh vào... Lính chạy hết tốc lực, cánh
đồng không có lúa dễ di chuyển nhưng quá dài đối với người lính mang
nặng. Làng vắng ngắt, nhà cửa bị bom dội đổ sập chỉ còn trơ vài cây cột.
Rừng dừa vẫn còn tươi, dừa miền Trung cao và to hơn gấp bội miền Nam;
vùng Bình Định, Phú Yên trong những đêm trăng, lá dừa lung linh ánh sáng
như sóng biển, đi tàu lửa đêm tưởng như trôi giữa đại dương... Đêm
trăng ướt lá dừa - Câu hát thật bình dị nhưng gợi cảm. Đêm trăng hôm nay
vẫn còn đấy, nhưng người làm câu thơ giờ này chắc đâu còn rung động như
những năm xưa. Hình như ông ta đã theo Mặt Trận.
Quân tiến đến làng Quang Nghiễm 4, xong trở về làng
Quang Nghiễm 3 để đóng quân. Cao độ ba mươi sáu thước, gió từ biển thổi
vào lồng lộng, đồi không cây, không căng võng được, ngủ ngay trên sườn
đá. Mặt trời tắt, gió mùa đông thổi lạnh, đêm ngủ không được, thân thể
mệt mỏi, nằm xuống nhớ thằng bé vừa sinh chưa đầy tháng. Cuộc hành quân
còn bao nhiêu lâu? Tôi ngồi dậy nhìn ra trong đêm tối, có tiếng sóng vỗ ở
nơi xa. Tôi biết mình đi gần về biển. Bao nhiêu lâu không thấy biển,
nơi tuổi trẻ của tôi đã lớn. Tôi đã già. Một ngày hành quân vừa đi qua.
Tiếp tục những ngày sau, tiểu đoàn tiến về hướng
nam, chợ Bình Dương Đông, chợ nhỏ nhưng đông, người từ những thôn xóm xa
xăm đến họp, có những món hàng thật tội nghiệp, bốn năm quả trứng, vài
bó củ cải mà người bán phải dậy từ sáng tinh mơ để đi đến đây từ một
làng sát bờ biển, tay mang, đầu đội, tay dẫn con vượt qua hàng mười lăm
hai mươi cây số để đổi lấy một vài thứ không thể sản xuất được. Tiểu
đoàn đóng quân tại chợ, lính nhào đi mua bán, ít khi họ mua được hàng rẻ
và ngon đến thế. Cả dân và lính đều hả hê vui sướng. Tiếp tục đi sâu về
phía đông đến tận đầm Trà Ổ. Làng thật trù phú, vườn củ đậu xanh, dừa
sai quả, tất cả nhà gạch trong làng đều bị bom cày nát. Nhà thờ Chánh
Khoan chu vi rộng hai mẫu, kiến trúc theo lối Tây phương, tượng thiên
thần tinh xảo còn tồn lại được trên đồi cao như dấu vết của một thời kỳ
thịnh vượng.
Một tuần, hai tuần qua, càng đi vào sâu càng thấy
đổ vỡ chiến tranh và tác động của nó. Cả một vùng đất đai trù phú từ đèo
Nhông đến đèo Phù Cũ, rộng từ quốc lộ 1 ra đến biển nhưng tổng số dân
cư không quá hai ngàn người. Không có đàn ông, thiếu người canh tác, lúa
chín đỏ không người gặt. Bà cụ già đến bữa ăn ra nhặt một ít đem về xay
để đủ nấu trong vài này. Dân ở bên cạnh đầm Trà Ổ không dám đánh cá,
chiếc đầm rộng hơn mười lăm cây số vuông, lưới cá giăng đầy không người
kéo. Sáng ngày thứ mười bốn, khi đóng quân ở trên bờ cát cao nhìn xuống
mặt đầm, nước đầm bủa sóng mênh mông, một chiếc xuồng nan trôi dật dờ, ở
trên có chiếc trực thăng lượn vòng, thỉnh thoảng bắn xuống một tràng
đại liên. Hai giờ sau chiếc xuồng vào đến bờ, hai người đàn ông lớn tuổi
được khiêng lên, cả hai đều bị thương.
- Sao ông lại ra ngoài đầm để làm gì?
- Lưới của nẫu nhiều cá quá, không ra gỡ thì uổng...
Gọi trực thăng xuống di tản, một người đàn bà từ đâu chạy lại ôm lấy người bị thương khóc lóc...
- Đã nói với nẫu đừng đi để nông nổi thế này! Đứa
bé chín tuổi đứng bên cạnh nhìn chúng tôi hằn học. Không lấy gì làm lạ,
địch đã ở vùng này quá lâu để gây ảnh hươœng. Ngôi trường học ở Phú Ninh
bị phá nát, Việt cộng đào rộng cái hốc ở núi Lồi để làm trường dạy lũ
trẻ. Tính đố: Ngày hôm qua quân giải phóng giết hai mươi quân Mỹ-Ngụy và
tịch thu mười tám súng, ngày hôm nay thêm bốn mươi lính ngụy chết tịch
thu ba mươi hai súng, hỏi quân giải phóng đã giết được bao nhiêu quân
Mỹ-Ngụy? Và tịch thu bao nhiêu súng? Bài hát: Em có cây bút chì. Vẽ ngay
một tên giặc Mỹ. Em tô con mắt xanh lè, cái mặt thật là gớm ghê... Đi
đến nơi đâu: Đàn ông ở đâu? Nẫu không biết! Ai giết cô Năm ở chợ Bình
Dương? Nẫu không biết! Cô Năm thợ may chỉ có cái tội sửa áo quần cho
lính, đêm sau tiểu đoàn đi, Việt cộng về lôi ra chém kèm bản án liên lạc
với Ngụy!
Bà già sáu mươi hai tuổi bị tình nghi là điểm chỉ
cho Việt cộng bình tĩnh đối đáp trong khi chúng tôi có đủ chi tiết trên
giấy tờ tịch thu được.
- Bà là mẹ chiến sĩ phải không? - Im lặng.
- Chúng tôi có giấy tờ chứng nhận bà đã đi thu thuế
trong vùng Chánh Khoan để nộp cho tên huyện uỷ Nguyễn Văn Bình. - Vẫn
im lặng. Bà già nhổ quyết trầu xuống đất, cười khủng khỉnh: Nẫu không
biết.
Sự dốt nát và hận thù, nghèo đói bệnh tật đè lên
đầu dân chúng. Tiểu đoàn đi đầu, đại đội chúng tôi đi sau chót, gặp một
toán dân làng thằng Hùng mang máy truyền tin cho tôi nghịch ngợm hỏi:
- Có thấy bọn Mỹ Ngụy qua đây không? Toán dân nhìn bộ áo quần của nó dò xét không trả lời.
Thằng Hùng trỗi dọng Quảng Bình:
- Các đồng chí phải hoan hô quân giải phóng, chúng
tôi đã giết được hai trăm tên Mỹ Ngụy nên lấy được áo quần và súng này
của chúng. Chúng tôi là quân giải phóng, các đồng chí đừng lầm, hãy chỉ
tụi Mỹ Nguỵ cho chúng tôi!... Toán dân mau mắn gật đầu:
- Kìa kìa, tụi nó đi ngã kia kìa, họ chỉ về hướng tiểu đoàn chúng tôi đang di chuyển.
Một tháng hơn đã qua, người tôi muốn nằm xuống như
một chiếc lá khô. Đi mãi, đi hoài, vòng lên Vạn Phú ra Chánh Khoan,
Chánh Giáo, kéo ra quốc lộ lãnh tiếp tế, xong rồi lại rút vào. Chúng tôi
đi không cần địa bàn, không bản đồ, cứ nghe đến mục tiêu là đi. Đi
không có kết quả. Nhưng tệ hại hơn cả là mệt mỏi tinh thần, những thảm
cảnh chứng kiến cùng với sự khổ nhọc của bản thân càng ngày càng chồng
chất lên cao. Người tôi căng bởi trong đau đớn và cuồng nộ vô danh.
Chiều ngày thứ bốn mươi của cuộc hành quân. Đại đội
đi hoạt động biệt lập, chúng tôi đi dọc theo bờ đầm, biển và bờ cát ở
bên phải, đầm ở bên trái. Trời mùa đông miền Trung xám đặc, bãi cát vàng
úa, đầm giăng giăng mưa bụi, từng đàn vịt trời bay lên, đảo xuống theo
một tốc độ chậm chạp buồn phiền. Tôi để một trung đội đi trên gò cát,
phần còn lại của đại đội dựa theo bờ đầm, đoàn quân đi thất thểu như một
lũ ma hoang. Một tháng mười ngày di chuyển không ngừng nghỉ, áo quần
bẩn thỉu, nhàu nát, gió mùa đông lạnh buốt. Chúng tôi đã tận nhọc nhằn.
Đến làng An Quảng, làng thuộc loại lớn nhưng hoang vắng một cách đáng
sợ, mọi nhà đều đóng cửa. Có tiếng khóc trong một ngôi nhà nhỏ, tiếng
khóc trẻ nít. Tôi cho một anh lính bước vào, một lúc sau trở ra dẫn theo
ba đứa trẻ, đứa lớn nhất khoảng mười ba tuổi.
- Nhà có người chết, Trung úy.
- Ai chết đó mấy em?
- Nẫu cha và mẹ. Đứa con gái lớn mếu máo trả lời.
- Chết lâu hay mau rồi? Sao mà chết?
- Chết hai ngày rồi, mấy nẫu bị đau.
Soát lại tình trạng của các căn nhà khác, đâu đâu
cũng có một vài người đã chết hoặc gần chết. Dịch hạch, toàn thể dân
chúng trong làng đều bị dịch hạch, bệnh nhân phần đông đang hấp hối, sốt
mê man hạch nổi to tướng. Tôi ra lệnh cho lính ra khỏi làng dẫn thêm ba
đứa trẻ.
- Em năm nay mấy tuổi?
- Dạ mười bốn tuổi.
Mười bốn tuổi, con bé hom hem gầy guộc ước chừng
mười tuổi, mắt nó ngơ ngáo, môi thâm xì. Hai đứa em trông còn thiểu não
hơn, đứa bé nhất khoảng bốn hay năm tuổi. Một gói cơm khô và hộp cá được
đưa ra, ba đứa bé ăn trong nháy mắt.
- Bây giờ các nẫu chôn dùm cha mẹ tôi.
Đứa bé gái xịt xoạt khóc, ngồi xuống bãi cát chắp
tay lạy chúng tôi. Hai đứa em bâu lấy chị oà lên khóc theo. Tôi đứng dậy
đi ra xa, cổ họng đắng ngắt, hơi thuốc lá rít vào nhờ nhợ muốn nôn. Gió
ở biển thổi vào làm mi mắt mọng mọng. Tôi ước gì được chảy dòng nước
mắt, nỗi giận vô cớ muốn vỡ toang trong người. Chôn hai xác chết, huyệt
đào sâu không quá một thước rưởi, lót mảnh ván đặt hai thây người bó
chiếc chiếu. Ba đứa bé đứng lặng nhìn những người lạ chôn xác cha mẹ
chúng với đôi mắt trợn trừng của những con vật sắp chết. Tôi muốn chôn
luôn cả chúng nó!
- Bây giờ các em ở đây với ai, lấy cái gì ăn?
- Dạ đào củ đậu và khoai. - Con chị chắp tay lạy tôi mấy cái để cám ơn.
Tôi ngồi xuống ôm thằng bé nhất trong tay, lòng khô
như bãi cát dưới trưa nắng. Thôi cho mấy em mấy hộp thức ăn này, anh
đi. Quân kéo xa khỏi làng, bóng ba đứa bé mờ dần trong sương chiều như
hờn oan.
Bây giờ thì sự sụp đổ trong linh hồn coi như đã
hoàn tất, lính đi lâu ngày sinh ra bê bối vì không phải quê hương ruột
thịt, lính chúng tôi không làm sao có trách nhiệm trên vùng đất này
được. Lính binh chủng này đem đi làm nhiệm vụ bình định nông thôn thật
là buồn cười, phải có những mục tiêu, những kết quả cụ thể mới giáo dục
họ được. Họ không thể chịu đựng nổi loại hành quân cứ đi hết làng này
qua làng khác, không đụng trận, không gặp địch. Chỉ có đi và đi hoài, đi
đến độ nhàm chán ngã lòng. Binh chủng chúng tôi phải ném vào nơi các
chiến trận gay go nhất, những vùng bị áp lực địch thật mạnh, để tấn
công, để chiếm giữ song cho rút ra nghỉ để tiếp tục với một cuộc quyết
chiến khác. Hành quân bình định tại một làng heo hút tận miền Trung,
không có lính chính quy của địch để đụng trận du kích đã từ lâu gây ảnh
hưởng và tuyên truyền, lính đi lâu ngã lòng vì cảm thấy vô ích thừa
thãi. Lại xảy ra các vụ buôn bán ái tình. Gái ở đây dễ tính, chiến tranh
kéo hút đàn ông đi, lính xuất hiện như một đáp số đúng. Người tôi như
một chiếc lá khô trôi theo giòng nước. Hai tháng trôi qua, sáu mươi ngày
lê chân đủ khắp hết mọi vùng núi non, đồng ruộng, chứng kiến những tàn
phá đổ vỡ của chiến tranh, cơn băng rã trong lòng người và những tình ý
quí báu bể tan như bọt nước...
- Chồng nẫu đâu rồi?
- Đi sửa xe đạp ngoài Qui Nhơn.
- Nẫu đẹp quá, có ưng anh không? - Tiếp theo là thô bạo suồng sã, xác thân bị đốt cháy tiêu tan bởi dục tình.
Chiều mưa, mưa thật lớn, đoàn quân đi trước, dân đi
sau. Từ Dương Liễu lên Vạn Phú, con đường bị lấp dưới làn nước chảy
xiết. Lính chịu đựng im lìm, dân xơ xác nheo nhóc lếch thếch trên giòng
nước bạc, trong làn mưa chập chờn như một lũ ma. Đường nhựa không xử
dụng được, nước cuốn trôi những đoạn đường lớn, tất cả đưa nhau lên
đường xe lửa vốn được đắp cao. Đường xe lửa xuyên Việt bây giờ chỉ còn
lại nền đất và đá cuội, tà-vẹt bị bóc hẳn, đường rầy bị lật sang một bên
nằm cong queo thảm hại. Tôi đi như một hồn ma trên con đường hoang tàn
đó.
Ngày thứ tám mươi, trực thăng vận từ phi trường Đệ
Đức vào làng nhỏ sông Phụng Tiên, nằm giữa Bồng Sơn và Tam Quan. Trực
thăng bay trên vùng biển dừa xôn xao ở dưới. Đại đội đáp xuống bình yên,
Tiểu đoàn tiến về phía nam. Di chuyển được một giờ, Đại đội 91 ở cánh
trái thấy thấp thoáng trong vườn mía bóng người chạy. Súng nổ, có tiếng
đạn bắn trở lại, đạn AK, đúng là Việt cộng khép chặt vào. Đại đội 94 từ
phía phải bọc lại. Đại đội 91 cho một trung đội tiến vào lục soát, có
vết máu dẫn tới một miệng hầm. Tèo ra lệnh vây chiếc hầm, cho người đến
gọi:
- Lên, không thì ném lựu đạn xuống...
Gọi được hai lần... Ầm! Một tiếng nổ từ dưới hầm
vang lên, Việt cộng dưới hầm vừa tự tử!! Lệnh khui chiếc hầm sáu, thi
thể bê bết máu được kéo lên từng cái một. Khám phá trong xác chết của
một tên ăn mặc chững chạc nhất: Huyện uỷ vùng Bồng Sơn- Tam Quan. Tài
liệu trong người tên này được khai thác tại chỗ, phát giác nhiều tin
động trời: Chuyến trực thăng vận của chúng tôi cách đây hai giờ đã được
ghi thành báo cáo chính xác, bởi điều nghiên của các tổ thám sát theo
dõi chúng tôi sau hai tháng qua. Kết quả tạm đủ, sáu chết với năm súng
bị tịch thu. Tiểu đoàn rút quân chạy đua về hướng nam. Vùng hành quân sẽ
trở thành miền oanh kích tự do trong đêm nay. Việt cộng đuổi theo bắn
sẻ. Đại đội 92 của Đức có nhiệm vụ ở lại để làm hậu vệ cho đoàn quân qua
sông, chín giờ tối đến chỗ đóng quân. Hai mươi mốt cây số đường ruộng
được chạy trong bốn giờ.
Tôi lăn xuống một chỗ ngủ, sáng mai mới biết là
chuồng bò. Tiếp tục đi về phía nam, phía Bồng Sơn. Dọc đường thấy chiếc
xe Dauphine của một nữ ký giả Pháp. Người này đã được Việt cộng đón. Tài
liệu tịch thu ngày hôm qua trong túi viên Huyện ủy đã thông báo chuyện
này. Về đóng quân tại ngôi chợ cạnh quốc lộ đối diện với phi trường Đệ
Đức. Thèm một cục nước đá, mặc dù đang mùa đông. Nước đá, sản phẩm thành
thị đã xa từ lâu. Thị trấn Bồng Sơn lầy lội, nhỏ bé nhưng vẫn quyến rũ
như một bát bún bò sau gần ba tháng chỉ ăn cơm lính hành quân. Chúng
tôi, hết thảy sĩ quan trong tiểu đoàn đi qua lại hoài hoài dãy phố nhỏ
không chán. Đã từ lâu không nhìn thấy mặt người. Từ lâu cũng không thấy
mặt trời...
Trở về Đệ Đức, suốt ngày chơi domino, chơi đến độ
hoa cả mắt, chơi suốt đêm. Tôi cố tìm cho mình một đam mê, đi lính không
mê một cái gì khó sống được. Làm sao có thể bình yên trong một cuộc
hành quân kéo dài đến ngày 88...
Ngày thứ 89, gắn huy chương ở sân cờ Trung đoàn 42
Bộ binh. Buổi sáng vào ăn ở câu lạc bộ Trung đoàn, ly cà phê, tô bún
thật dễ chịu. Có một anh trung úy đội cái nón da lót nỉ, thứ nón trong
phim Bác sĩ Zivago trông thấy thật chướng mắt. Đại úy Đỉnh nhào tới,
kiếm chuyện đánh liền. Tốt, chúng tôi sửa soạn lâm chiến nếu có cuộc
đánh hội đồng... Anh trung úy nhịn thua, thật là buồn! Bao nhiêu phiền
muộn muốn cho nổ tung ra, nhưng không có dịp may. Gắn huy chương, bản
tuyên dương công trạng nhắc tới thành tích của tiểu đoàn trong ba tháng
vừa qua. Địch chết, bị bắt, tình nghi... Chẳng có nhắc đến nỗi buồn chán
hoài hoài của chuyến đi thất thểu bên bờ đầm trong chiều mưa. Bản tuyên
công cũng không kể đến cảm giác nghẹt thở khi chôn hai thây chết trong
khu vườn hoang. Những giây phút ngặt nghèo đó có gì để tưởng thưởng.
Được gắn một huy chương bạc cho cuộc đi dài 89 ngày.
Chúng tôi trở về chỗ đóng quân để đợi máy bay về
Sài Gòn, đánh domino suốt ngày, trời mưa không dứt. Phiên chợ bên cạnh
chỗ đóng quân buồn bã xơ xác, tôi ra đứng ở bờ sông Lại Giang, trên
chiếc cầu nổi, mưa giăng bụi... Thèm một ly cà phê như trong cảnh thơ
Quang Dũng. Nhưng hào khí ngày nào đâu còn.
Tháng 12-1966. Bồng Sơn.
Chương 16: Những Ngày Dài Trên Quê Hương
Tàu
rời cửa Thuận An lúc năm giờ sáng, váng vất cơn say chiều hôm qua. Mặc
anh thường vụ đại đội lùa lính lên tàu, tôi leo vào khoang sau buồng máy
dựa lưng ba-lô nhắm mắt ngủ thiếp. Tiếng máy tàu, cảnh vật hai bên bờ,
ánh nắng đầu tiên của ngày dịu dàng lời ru, cùng bềnh bồng hơi rượu và
sông nước... Tôi ngủ yên như vào cuộc rong chơi. Nắng dọi vào mắt làm
tỉnh ngủ, tôi ngồi hẳn dậy, đốt điếu thuốc đầu tiên của ngày, nhìn bọt
sóng sau mạn tàu, người hững hờ như đang rơi trong khoảng trống lúc dù
chưa bung. Cảnh vật hai bên bờ thật đẹp, lật bản đồ, tàu đang đi vào địa
phận đầm Thủy Tú, bên trái Túy Vân Sơn, bên phải Hương Thủy, Phú Thứ...
Những ngày hè thuở nhỏ tôi cũng thường rong chơi theo những dòng sông
đẹp đẽ như thế này. Sông Cu-Đê chảy ra biển ở Nam Ô dưới chân đèo Hải
Vân, tôi theo con sông vào đến nội địa đất Quảng Nam, lòng sông cát
trắng, nước trong vắt, hai bờ núi in hình dưới lòng sông những ô cẩm
thạch. Mái chèo khua bọt nắng lung linh trên mặt nước. Tôi không biết
đường đến chùa Hương thơ mộng như thế nào, nhưng con sông Cu -Đê đầy ánh
nắng của sớm mai tuổi nhỏ kia vẫn chảy hoài trong tôi như một mơ mộng
không dứt đoạn. Sáng nay tôi cũng đang đi vào cảnh đẹp của quê hương.
Nhưng lòng hờ hững cơn say...
Tàu đến địa điểm đỗ bộ, khu trục đến "raser" một
phát, thôn xóm đang bình yên bỗng chốc biến thành biển lửa... Bốn chiếc
FOM dàn hàng ngang chạy nhanh vào bờ. Xuống... Xuống, xuống thật nhanh,
đem cái súng cối lên trước... Chậm như rùa.
Hiến "chó xù", trung đội trưởng súng cối kê ngay tôi một phát:
- Vừa thôi ông ơi, Nhảy dù chứ đâu phải Thủy quân lục chiến mà ông bảo đỗ bộ nhanh bằng mồm ông được...
- Kệ mẹ ông, chậm thì chết cả lũ bây giờ.
Phóng mình xuống nước, ngập tới cổ... Tôi chửi thề tùm lum. Chưa gì sáng mai đã phải tắm sớm!
Đằng xa hai đại đội tác chiến đã lập một đầu cầu,
tôi tà tà lội vào bờ. Đại đội đã lên đủ. Thấy tôi lên sau chót, thằng
Phen, xạ thủ súng cối nói dỗi:
- Trung úy bảo tụi em chạy theo trung úy mà bây giờ mới đến!!
- Đi theo đại đội trước... - Tôi cáu kỉnh.
Quân vào làng, làng thật nghèo, hoang vu, cát xám,
gai xương rồng, luống bắp cằn cỗi. Sao cái đất của quê hương tôi tội
nghiệp và thảm hại đến như vậy. Ông già, đàn bà bế con cái, cháu, chắt
ra đứng hai bên đường đợi chúng tôi đi qua. Họ chứng tỏ sự chân thành
bằng cách có mặt, vài ngôi nhà vừa cháy vì trận oanh tạc vừa qua, người
chủ nhà không thèm chữa vì biết rằng có chữa cũng vô ích... Ngọn lửa
hừng hực tung hoành tự do lan theo những đụn rơm, lũy tre.
Lũy tre già xao xác vặn mình đau
Đàn súc vật lao đầu kêu tuyệt vọng...... Ôi quê hương đắm chìm trong khói súng.
Có bao giờ được thấy bóng thân yêu!!!
Từ thuở nhỏ, không hiểu tại sao tôi đã thích bài
thơ "Cháy Quê Hương" của một tác giả vô danh, những câu thơ bình dị
nhưng thiết tha như lời van xin...
Lửa nghi ngút đốt ngang trời bão loạn
Mây điên cuồng phủ kín bóng quê hương
Những cụ già tóc bạc khóc đau thương
Những thiếu phụ lo lo âu tràn mắt lệ...
Sáng hôm nay, tôi cũng đang đi đốt quê hương. Sáng
hôm nay tôi cũng đang là tên lính viễn chinh trên phần đất mà tổ tiên đã
bằng một nỗ lực phi thường gây dựng nên từ bờ cát, đồng ruộng phèn
chua. Quê hương đẹp đẽ huyền thoại như chuyện đời xưa... Này đây chiếc
đầm xanh ngắt mờ mờ sương khói.. Ôi! Tôi đi đốt quê hương tiền nhân, tôi
đi cắt mạch máu tổ tiên, tôi tàn hại cuồng khoái trên thân thể đã tan
hoang vì bom đạn của một giải đất nghèo tên gọi là Thừa Thiên!! Này ông
già có nhà cháy, sao "ôn" không khóc?... Khóc làm chi nữa "en" ơi, nhà
cháy ba lần, con đi lính gãy chân nằm ngoài Mang Cá, giặc Tây lúc xưa
"đút" nhà hai lần, giặc ni "đút" ba lần... Còn chi mà khóc nữa "en" ơi!
Ông ở đây với ai? Với hai thằng cháu này, cháu kêu tôi bằng ông nội...
Ông nội ơi, lúc xưa tôi cũng có một bà nội, bà nội thật già tóc bạc
trắng, mỗi buổi chiều để dành cái bánh đa để thằng cháu sau khi ngủ dậy
có cái ăn. Bà nội thương cháu, ấp ủ cháu lớn lên với đời, che chở cho
cháu vì "hắn thiếu cha". Tôi được nuôi lớn bằng tình thương, đâu biết
được sau này lại về quê hương như một kẻ xa lạ, đắm mình trong cuồng nộ
điên mê.
- Trung úy cho phép tôi tới đằng cái nhà kia một lát.
Người lính Địa phương quân của chi khu Phú Thứ
thuộc thành phần tăng phái theo chúng tôi để nhận diện du kích hoặc
người tình nghi trong vùng nói nhỏ, tiếng than vản...
- Anh đi láng cháng coi chừng đạp phải mìn "chân tay biệt ly" thì đời tàn...
- Không sao đâu trung úy, tui người vùng này mà, nhà anh tui chỗ đó.
Người lính đi một lúc trở lại với hai đứa bé, một đứa khoảng sáu tuổi, đứa kia hơn ba.
- Con ai đây?
- Dạ cháu kêu bằng chú, cha tụi hắn chắc đi theo Mặt Trận, mạ hắn trốn đâu không thấy.
- Bây giờ anh đem nó theo?
- Dạ...
Người lính yên lặng xốc thằng nhỏ trên vai xuống,
móc túi lấy mấy chiếc kẹo nhà binh đưa cho hai đứa bé. Thằng lớn cầm lấy
chiếc kẹo, tần ngần. - Chú cho cháu ăn cơm, đói lắm. - Người lính móc
từ ba-lô nắm cơm gói bằng giấy báo, hai đứa bé ăn trong nháy mắt, thằng
lớn cầm mảnh giấy trên hai tay lè lưỡi liếm sạch từng hạt cơm còn sót
lại. Tội nghiệp quá mấy em ơi! Tôi đưa tay vuốt đầu thằng nhỏ, tóc nó
cứng như một thứ rễ cây. Khốn khổ cho mấy em biết mấy, ba tuổi đã phải
trốn trong căn hầm tối tăm, ẩm thấp, nhịn đói, nhịn khát đã hai ngày, ba
tuổi chưa biết cởi chiếc quần để đi tiểu, nước tiểu đọng vàng ố mảng
quần... Em có khóc không hỡi em, hai đứa bé tang thương vùng Phú Thứ...
Nhưng chắc các em cũng đủ biết thân phận khốn nạn của đứa trẻ Việt Nam
trong thời loạn lạc nên đã nuốt xuống tiếng nấc... Tương lai nào cho các
em, đứa sáu tuổi đã biết ôm em vào lòng, mắt nhìn lên miệng hầm đen chờ
đợi một trái phá, một tràng súng chấm dứt đời chưa kịp được ngày trong
sáng... Ôi các em! Người tôi căng như trên đống than hồng, nhỏ từng giọt
máu xót xa!! Đau thương biết mấy hả trời... Đạn nổ. Đạn súng tay, súng
cối từ bên cánh trái nổ vang, Tiểu đoàn 7 đang đụng địch. Việt cộng túng
thế chạy về phía tiểu đoàn tôi, đạn 12 ly 7 từ Tiểu đoàn 7 bắn về tuy
đi cao nhưng vẫn tạo thành cảm giác e ngại. Thằng nhỏ ba tuổi bíu chặt
lấy lưng chú, thằng bé lớn nhào xuống bờ ruộng, lấy hai tay bịt chặt
tai, mắt nhắm nghiền. Tôi nghĩ đến một tuổi nhỏ của "Guerre des
boutons", tuổi nhỏ của Sài Gòn đường Nguyễn Huệ, tuổi nhỏ mồm ngậm kem
và xem ti vi. Các em ơi, các em có bao giờ biết có một tuổi nhỏ "thần
thoại" nào như vậy không? Quân rút theo đường bộ ngã chi khu Phú Thứ ra
quốc lộ 1, gần phi trường Phú Bài, trời trở mưa, người lính cột thằng
cháu nhỏ trên lưng bằng sợi dây mang đạn, tay nắm khẩu Garant, tay dẫn
thằng cháu lớn. Dấu chân trần của đứa bé in trên cát ướt, thấy thảm
thương như giọt máu hồng từ quả tim non.
Xe đưa đoàn quân về lại Quảng Điền, sáu giờ chiều,
tiểu đoàn vượt sông Bồ đóng quân tại làng Bát Vọng đối diện với quận lỵ.
Tôi ngã xuống chiếc võng cột giữa hai cây cột đổ, kiệt lực như người
bịnh nặng. Hành quân đã hai tháng mười hai ngày.
Trăng soi xuống giòng sông lăn tăn gợn sóng nhỏ,
không có được chút mơ mộng, lòng đẫm ướt u uất hư hại như ánh trăng nhờn
nhợt lạnh soi xuống ngôi nhà thờ đổ nát bên kia sông. Bây giờ đang tiết
thu sao trời đầy giá rét, tôi chìm sâu xuống trong vùng tê cóng. Súng
nổ từ phía đại đội 93, nghe qua máy truyền tin được rõ toán phục kích
bắn chết hai Việt cộng, tịch thu hai súng, một tên bị thương chạy vào
xóm nhà dân... Bắn trái sáng, lục soát xóm nhà, thằng bị thương chắc hẳn
trốn đâu trong đó... Lệnh từ tiểu đoàn. Cả một xóm làng bị dựng dậy
trong đêm khuya, ánh lửa nhấp nháy từ những chiếc đèn con, ánh sáng từ
hỏa châu soi xuống nhợt nhạt.
- Trung úy, cho em qua bên đại đội 93. - Hạ sĩ Em, thư ký hành quân của đại đội tôi nói nhỏ.
- Qua bên ấy làm gì?
- Xóm đó có nhà em, mạ em ở trong đó.
- Thật không? - Em gật đầu. Dưới bóng trăng mắt nó
long lanh như khóc. Khi đại đội 93 lục soát xong Em trở lại với một bà
già gánh đôi quang gánh.
- Mạ em đây. - Em giới thiệu bà già với tôi.
Người đàn bà ngồi bệt xuống đất kéo vạt áo lên lau
nước mắt, Em ngồi xuống bên cạnh người mẹ, nắm lấy bàn tay gầy guộc nhăn
nheo. Hai mẹ con người lính ngồi im lặng dưới ánh trăng bàng bạc, thỉnh
thoảng có tiếng nấc nhẹ...
- Mạ, theo con vào Sài Gòn nghe?
- Không, tao ở đây còn coi đất, coi cát, buôn bán
kiếm ăn qua ngày được rồi... - Yên lặng chĩu xuống, dưới sông tiếng sóng
nhỏ, con nước chảy thì thầm. Hai mẹ con Em ngồi im lặng suốt cùng đêm.
Để lại đại đội 93 tại vị trí đóng quân, tiểu đoàn
kéo ra lại quận lÿ Quảng Điền, ngoài tên hiệu hành chánh này, quận còn
có một tên thật độc đáo - Sịa - vô nghĩa nhưng hóm hỉnh và mộc mạc. Dân
tộc tính, nếu có thì chính những chữ vô nghĩa này. Tôi là kẻ sinh quán
từ miền Trung, nhưng một thứ miền Trung vong ân, phế bỏ quê hương từ
thuở lâu lắm. Lẽ tất nhiên, trong tận cùng ao ước, tôi chẳng bao giờ
nghĩ đến lúc phải trở về trên mảnh đất nghèo hèn này, nhưng chiến dịch
đã dun dủi tôi trở về. Và tôi đã trở lại để thấy rõ sức mạnh tiềm tàng
nhưng vĩ đại của tổ tiên, một giòng họ "Phan" nghèo khó theo chúa Nguyễn
vào Nam, khởi đi từ những thôn xóm tận cùng miền Nghệ An, Hà Tĩnh...
Chúng tôi đã xa nhà từ lúc trời còn tiết hạ, đến
bây giờ nỗi chịu đựng đã lên đến tột đỉnh, mệt mỏi rã rời cộng thêm giá
rét miền Trung, người mềm đi như bóng cò trắng đứng trơ vơ trên đồng
vắng. Nhưng độc hại nhất là cảnh khổ phải chứng kiến; những khổ cực lì
lợm nặng nề đè lên người dân, khiến họ còm cõi lặng lờ như ngọn đèn sắp
tắt. Chiến tranh đã phá nát khắp cả quê hương miền Nam, nhưng vườn cây
Kiến Hòa, ruộng ở Long An dẫu tang hoang, rừng dừa Bình Định dù có bị
đạn bom tàn phá vẫn giữ được sức màu mỡ tiềm tàng từ mạch đất tươi tốt,
trong thân cây dừa căng cứng nhựa... Nhưng ở đây, miền đất hẹp từ Quảng
Trị vào Thừa Thiên, chiến tranh đồng nghĩa với phá vỡ tận gốc rễ. Nhìn
một căn nhà ở vùng An Phú Đông bị sụp đổ, ta có ý nghĩ gia chủ sẽ cất
một chiếc nhà mới ngay sau khi dứt tiếng súng do thiên nhiên tràn đầy
sung mãn, miền Nam luôn luôn cháy sáng hy vọng cho người... Nhưng ở đây
qua La Vân, Niêm Phò, những làng nhỏ bên sông Bồ nhìn ra phá Tam Giang,
những ngôi nhà sụp đổ là dấu hiệu tàn tạ của toàn thế hệ, dòng sống.
Những nếp nhà thật xưa, trang nghiêm, kín đáo ba gian hai chái, thấp
xuống như tan cùng bóng mát của cây đào trồng đằng trước, nền gạch mát
rượi, lòng nhà tối tăm, hơi lạnh từ hàng cột, bờ tường rêu phủ xanh xao
bốc lên... Trước nhà có non bộ, sau non bộ là bình phong, hàng rào gạch
trên có gắn miểng chai ngũ sắc, cổng với mái ngói, hàng câu đối nét chữ
trang trọng. Suốt trên dãy quê hương này ông cha chúng tôi dựng nên
những nếp nhà như vậy, để đánh dấu kiêu hãnh thầm kín muốn tồn tại trong
một thế giới khô cằn nghèo khổ. Cách tồn tại lặng lẽ nhưng đài các hệt
câu hò tình tứ bay bổng lên nền trời từ một khoang đò lững thững. Tôi
biết rõ niềm kiêu hãnh trong lòng tổ tiên, những người nông phu đã rời
bỏ quê hương đi về Nam. Họ đến đây sau khi đã đi hết đoạn đường dài cát
bụi của hai xứ Quảng Bình, Quảng Trị. Họ đến đây và bị chận lối bởi Hải
Vân Sơn nên dừng lại, dừng lại để xây dựng một quê hương mới, một kinh
đô, để biến mình thành lớp dân kinh kỳ, người kẻ chợ. Những tổ tiên đó
đã chứng tỏ sức mạnh sáng tạo trên nơi chốn nghèo hèn bằng một lối sống
đầy nghi lễ và kiểu cách.
Nhưng trái bom đã rơi xuống trên mộ phần tổ tiên,
đã phá vỡ hàng rào quan liêu đài các của những ngôi từ đường, những phủ,
những dinh, đã cuốn trôi hết thảy dấu vết của những người muốn giữ gìn
sau một đời dài phấn đấu. Tôi đi qua quê hương này để thấy rõ niềm ao
ước của người xưa bị cắt đứt, viên gạch tảng vôi của những cổ mộ vùng
Mậu Tài, Đồng Xuyên nỗ tung dưới bom đạn trông xót xa như da thịt của
người xưa. Tôi, một kẻ nhỏ trở về để nhận lãnh hân hạnh thảm hại— Chứng
kiến phút giây sụp đổ của tiền nhân. Nhưng cũng trong những lúc này,
những lúc nát vỡ nát toàn diện quê cha, tôi cũng được nhìn tận mặt sức
phản kháng im lặng nhưng quyết liệt đối với định mệnh của một lớp người
dù trong cuối đáy khổ cực, vẫn tin tưởng sắc son đến từng bụi cây, khóm
cỏ… Một ngày dẫn quân đi dọc bờ sông, đến làng Lương Cổ, làng vắng nhưng
sao quãng đường này sạch sẽ in dấu chổi vừa quét. Có tiếng động, một cụ
già tóc bạc phơ, áo quần rách vá chằng chịt, từ một bụi rậm đi ra... Bà
cụ làm gì vậy? - Thứ giọng trung pha bắc lẫn nam của tôi không làm bà
cụ hiểu được, phải gọi thằng Thiên tới, anh "lạc đà" người Huế của tôi.
- "Mệ" làm chi rứa mệ?
- "Mệ" quét đường con...
- Mệ ở một chắc răng mệ?
- Có "ôn" ở trong nhà nữa con. - Hai vợ chồng già,
già lắm, trong cảnh làng hoang vắng đổ vỡ, vẫn cố gắng quét sạch đoạn
đường làng trước mặt nhà, cỏ dại lá tre được un về hai mép đường khéo
léo và gọn ghẽ. Con đường đất vàng tươi phủ lớp bụi phơn phớt lượn vòng
vèo theo bờ sông dài đến trăm thước, thế nhưng, bà cụ trên bẩy mươi
tuổi, yếu đuối, lưng còng, do thói quen muốn chỗ ở luôn luôn được sạch,
đã cố gắng quét dọn tươm tất. Tôi đi vào căn nhà phía trái con đường,
ông lão chồng bà cụ đang lom khom trên mảnh vườn nhỏ, hoa thược dược nở
từng đóa thật lớn, đỏ tươi chen lẫn với những chậu cúc vàng...
- Mấy cậu bắn răng sập cái nhà của tui lại rồi!
Lời trách cứ nhẹ nhàng làm lòng tôi trùng xuống. Một quả đạn 105 ly đã rơi trong khu vườn làm sụp một mái nhà...
- Bị bắn lâu chưa ông?
- Đại bác trong quận bắn ra tối hôm qua đó cháu...
Viên đạn phá sập tường nhà tối hôm qua, nhưng sáng hôm nay những viên gạch vỡ đã được xếp gọn ghẽ ở góc tường.
- Bữa nào yên, ông đi Huế mua xi-măng về xây lại đi ông già. - Người lính đề nghị với một vẻ cười cợt...
- Cha, tui xây mấy lần rồi đó. Cứ làm xong là bị bắn sập. Nhưng lạy ôn bà, vợ chồng tôi khôn có chi cả là mờn rồi!
Ông lão dung dị nói về tai ương phải gắng chịu. Tôi
không biết trong thân thể già nua đó, sức mạnh nào đã giúp ông qua được
đời sống lửa đạn để hằng ngày tỉa lại nụ cúc vàng rực rỡ...
- Sao ông không về Huế mà ở?
- Tui già rồi, ba bốn trận giặc trước còn sống được
thì lúc này có chi đi nữa tui cũng phải ở lại để coi nhà cửa đất cát.-
Ôi, nhà cửa đất cát... Người già đã đã xây dựng từ một tuổi thanh xuân
nay chúng tôi đi phá vỡ. Tình yêu đất đó, họa chăng chỉ có người Trung
Hoa mới có thể so sánh được. Phải chăng đó cũng là sức mạnh nền tảng của
Dân Tộc Việt Nam.
Đóng quân ở Quảng Điền, lính vui vẻ vì thấy người,
được uống cà phê, nước đá. Riêng tôi đã quá đủ, đủ quá nên chỉ xin một
thế giới thật vắng vẻ, thế giới yên lặng không bị đánh thức bởi tiếng
nổ. Hãy cho tôi dòng sông không pha máu người, không in bóng giáo đường
bị cháy... Hãy cho tôi ngủ bình yên bên con sông mùa xuân tuổi nhỏ...
Sông Cẩm Lệ, chảy từ Phong Lệ qua Miếu Bông ra sông Hàn, chỗ gần núi Non
Nước, Đà Nẵng. Nơi đó, giòng sông mênh mông đầy cát nhỏ, tôi nằm dưới
giàng lưới cá, nước dưới lưng lạnh ngắt và thân thể ở trên hong nắng,
một thứ nắng thật mới của ngày mồng hai Tết. Cho tôi nằm lại trên dòng
sông thơ ấu đó để quên những đầm Thủy Tú, sông Bồ, phá Tam Giang, xin
cho tôi quên dấu chân đứa bé sáu tuổi in trên nền cát, chạy luống cuống
trong hấp tấp sợ hãi vì tiếng súng, xin cho quên người mẹ bị đánh thức
trong nửa đêm để gặp lại đứa con sau bốn năm xa cách, nay mặc áo rằn ri
của lính Nhảy dù. Đứa con thơ dại năm xưa nay cằn cỗi như một thứ tù
binh khốn nạn với những vết nhăn gian lao, người mẹ do không nhìn ra nên
đã ngồi xuống chắp tay van lạy xin tha tội!!! Ôi cái tội khốn khổ vì đã
làm người dân trong thời lửa đạn. Cho tôi quên Quảng Điền, buổi sáng
bảy giờ, người đàn ông vác vợ trên lưng, tay bế đứa con gái hai tháng,
đứa lớn bốn tuổi lẽo đẽo theo sau... Người đàn ông tiến vào văn phòng
quận vì tối qua vợ bị lạc đạn gãy chân. Đứa con nhỏ hai tháng được bố
đặt sát vào ngực mẹ, cố tìm trên hai đầu vú thâm tím một giọt sữa trong
khi người mẹ thiếp mê vì cơn đau, một ống chân bị đạn bắn vỡ vẫn cố đưa
bàn tay trong hành động vô thức, ép chiếc đầu con vào núm vú héo hắt!!!
Thôi đủ quá rồi. Đóng quân ở đâu cũng chỉ có thế thôi... Hãy cho về ngủ
quên trên thôn xóm bình yên không nghe tiếng súng, dân quê đừng chắp tay
van lạy mỗi lần chúng tôi xét hỏi, người đàn ông xin đừng van vỉ than
khóc khi thấy vợ mê đi trong cơn đau đớn, đứa bé chợt rú lên vì sữa mẹ
cạn nguồn... Máu của mẹ đã chảy rồi đâu còn có sữa cho con. Quê hương
của tôi ơi... Quảng Điền, Phong Điền, Phú Thứ, Hương Thủy, Đồng Xuyên,
Mỹ Xá... Thôi đã quá đủ. Tôi đâu ngờ có một quê hương tang tóc như thế
này hở trời!! Muốn kết cỏ ngậm vành, muốn cắn răng vào đất, muốn nhỏ máu
xuống dòng sông. Đau xót lắm, tôi đang chứng kiến quê hương tàn phá
bằng tuổi trẻ của tôi. Quá đủ rồi những ngày Huế - Thừa Thiên.
Tháng 10-1967. Quảng Điền, Thừa Thiên.
No comments:
Post a Comment