Lời Mở Đầu
Theo
lời dặn của C— Anh cố vấn văn chương— Tôi phải viết một cái tựa thật
hách, ngắn, cô đọng và hay ho không chịu được... Nhưng viết thế nào để
có thể gọi là " hách"? Thôi, tôi mở đầu bằng cách bày tỏ nguyên do đồng
thời đề biện hộ cho những dòng viết ở những trang sau. Đến cái tuổi này
lẽ tất nhiên tôi chẳng hy vọng gì nơi văn chương nữa, cũng không thể ước
mơ nhờ cái ngõ văn chương để kiếm một chút danh gia. Hơn nữa, danh vọng
của một người viết văn ở Việt Nam cũng chẳng lấy gì làm sáng sủa. Bao
nhiêu năm làm văn nghệ, cũ như Lê Văn Trương, Đinh Hùng, mới như Quách
Thoại, đến khi chết đi thì cũng chẳng còn gì - Thế Phong đó - anh chàng
làm văn nghệ như một gã tiền phong, "Nửa đường đi xuống" phải đóng bộ
ka-ki độ nhật qua ngày với tờ báo của Không Quân. Thế nên tôi chẳng hy
vọng gì ở cái "nghề của chàng" nữa. Nhưng vẫn muốn viết, viết như một
"nhu cầu", nói cho có vẻ thiết tha. Tôi đâu phải là hoàng tử văn chương
ngoại hạng, xem chuyện viết lách như một công việc nghiêm trang giữa
người và thế giới bí ẩn của chữ nghĩa, viết đối với tôi đúng ra chỉ là
một cách thoát hơi— Viết để khoỉ ấm ức bực mình.
Sau tám năm ở lính, thời gian thoải mái thật hiếm
hoi, những phiền toái có duyên cớ hay không, chính danh hay ẩn dấu hình
như chực sẵn ở trong người, có cơ hội sẽ dấy lên như giông bão. Đôi khi
tôi thấy thật yêu cái nghề này, nó tạo cho con người tính kiên nhẫn,
lòng vị tha, chế ngự những hèn mọn của mình. Nhưng cũng có lúc tôi thấy
nó thật tệ, không có một nghề nghiệp nào ù lì, cứng đọng và thụ động
bằng " đi lính ", chỉ cần thừa hành trong một giới hạn thật sít sao, thế
là đủ. Có nhiều lúc tôi muốn ném tung hết tôn ti trật tự, bộ quần áo
trên người để thong dong giang hồ một chuyến tự do, nhưng đồng thời cũng
vừa khám phá, đang bị buộc chặt, đã quen với đời sống này. Thật khó
khăn khi phải nói chuyện với một anh dân sự, hình như tôi và hắn ta ở
hai thế giới thật khác xa nhau.
Tôi cũng muốn viết về đời sống lính với những con
người thật lạ. Năm 1966, có gã lính thật trẻ ở đại đội tôi, hắn ta thấp
bé da xanh mướt ốm yếu, nhưng uống rượu kinh khiếp, hai lít rượu đế hắn
uống tỉnh bơ, hình như rượu không tạo nên phản ứng nào trong người.
Ngoài cuộc rượu, y bình lặng kín đáo như một con ốc. Một hôm đứng gác,
sẵn súng ở tay, hắn bắn vào đầu tự vận. Tôi không biết nỗi thất vọng
kinh khủng nào trong đầu một thằng bé 19 tuổi. Đức " điên " Biệt động
quân, quan Ba, Tiểu đoàn phó, đi hành quân mang khẩu M.79 chạy trước
hàng lính, về Sài Gòn đi chơi, mặc một chiếc áo bà ba đen, dưới quần
lính, chân mang dép Nhật, trang bị thêm một con dao đi rừng. Tôi không
hiểu nó nhìn đời thế nào qua cặp kính trắng dày cộm khi trên người trang
bị với phụ tùng như thế. Đại khái ở lính có những loại người " bất bình
thường " như vậy, và trong đám bất bình thường trên lại chen lẫn vài kẻ
bình thường thật kỳ quái. Thiên, anh chàng đi theo tôi trong hai năm,
một ngày chỉ nói khoảng hai mươi tiếng: dạ, vâng... Thế là hết. Nó ở xa,
tôi gọi đến vỡ phổi không tiếng trả lời, lát sau lặng lẽ đi đến. " Tao
kêu mày có nghe không?..". " Dạ có ". " Thế sao mày không trả lời? ".
Thiên bóp bóp hai bàn tay đứng im. Thấy những người lính khác bắt gà, nó
cũng bắt một con treo trên ba-lô, đi một đoạn vắng người, thả chạy,
xong làm dấu Thánh giá đọc kinh.
Đi lính tôi có nhiều "thế" sống thật đặc biệt.
Chiều 29 Tết năm 1963 ởchân đèo Rọ Tượng, Khánh Hòa, căn cứ Lầy, trời
rét như cắt ruột, mưa phùn bay mù mịt, chúng tôi đứng trong nước sình
ngập đến ngực, lạnh, đói, đã gần năm ngày liên tiếp mình mẩy không bao
giờ được khô. Dân chúng đi từ Ninh Hòa về Nha Trang tưởng chúng tôi là
tù binh, ném bánh ú từ trên xe xuống cho, một vài bà già chấm nước mắt
khóc vì thương hại. Nhưng chúng tôi vẫn vui như tết, Năng và tôi nhặt
bánh ú ngồi ăn ngon lành, cả hai đứa đều là những " Tân Sĩ Quan " vừa
quỳ xuống đứng dậy cách đây một tháng để lãnh nhiệm vụ gánh vác non
sông! Chúng tôi hãnh diện với nỗi cực khổ của mỗi phút chịu đựng, lòng
không một chút ta thán... Nhưng lúc gặp nhau ở Sài Gòn, hai thằng đem
nhà binh ra nạo đến sát ván không chút nể nang. Bình Giã đói và khát hai
ngày đến nỗi lính phải hút nước ở rễ cây, có tên uống phải rễ cây độc
đứng tim chết. Kéo quân ra Phù Mỹ, uống một nón sắt nước ruộng nhưng
lòng không phiền hà. Mười chín tháng Ba 1965 kéo về Sài Gòn đóng ở Đài
phát thanh, cô-ca lạnh mát nuốt vào khó khăn không làm dịu được nỗi oi ả
ở trong lòng.
Chính vì những cảnh đời đa đoan này mà tôi phải
viết. Không viết thì phí đi, bạn bè bảo tôi như vậy. Thế là tôi viết, và
đến bây giờ coi như xong, nhưng chắc rằng chưa đủ. Xem lại chợt thấy
bùi ngùi và thương thân. Bao năm tháng tột cùng của cực khổ và gian nan,
đầy dẫy tủi nhục để viết được chừng này? Thấy mình tội nghiệp lạ lùng.
Rồi kết quả ra sao? Coi chừng lại bị đụng chạm, lôi thôi với chính phủ
thì thật là khốn nạn! Người lính đánh máy hộ cảnh cáo.
Trong thời gian sau này, thường thường những giấc
mơ của tôi cuối cùng dẫn đến một chủ đề - Nước. Tôi mơ thấytrời mưa, mơ
thấy được tắm trong dòng suối, được vùng vẫy trong sông lớn. Kỳ cục hơn
có hôm tôi mơ bị mắc cạn trong cống rãnh. Về mặt sinh lý người ta bảo đó
là hiện tượng yếu thận, tâm lý bảo đấy là ý định muốn giải thoát— Có
thể đúng như vậy, vì tôi đang yếu thận đồng thời luôn luôn có cảm giác
"lạ" với đời sống này. Tôi không coi những ngày đang sống là sống thực.
Sống bây giờ là sống gởi, cõi mơ ước nào đó mới là quê hương thật. Nhưng
đúng chỉ là mơ ước, vì còn một nơi chốn nào khác ngoài cuộc đời ngặt
nghèo này— Chỉ còn một cõi trong tôi. Nhưng thôi, "tác phẩm" khi đã xong
có phần đời của nó - hai mươi sáu tuổi - tám năm lính để lại gia tài
trăm trang giấy! Có một vị đắng ở đầu lưỡi. Nhưng nói cùng ai? Tôi cũng
trốn tôi trong câu hỏi này.
Tuy nhiên khi viết xong, đọc lại thấy vừa lòng
nhưng đồng thời một vài ý nghĩ thật lạ xảy đến. Những ý nghĩ trong chiều
mưa, mưa thật lớn trên đồi cao, gió thật mạnh, doanh trại vắng vẻ như
bãi tha ma. Ngồi một mình nhìn ra khoảng không gian xám đặc... Con chim
sẻ trốn mưa bay vào phòng đậu trên thành giường, sù lông rũ nước kêu lên
những tiếng nhỏ thật cô đơn. Tôi cũng như con chim nhỏ trong chiều mưa
này. Và từ đó thấy trong lòng những tình lạ thật thiết tha, hồn hậu như
của những ngày vừa mới lớn. Tôi thấy những điều viết quá hằn học, nhiều
thù hận và độc đoán. Trước tiên đối với người Mỹ. Những sự kiện gần đây,
cảnh hai phi hành gia bước chập choạng trên mặt trăng. Những bước đi
đầu tiên của con người trên một hành tinh khác. Lẽ tất nhiên tôi không a
dua theo một phong trào để hoan nghinh sự thành công của Apollo 11, đã
từ lâu tôi không xem trọng thí nghiệm này. Chỉ có cảm phục khi nghĩ đến
những công tác khoa học tinh vi và chính xác để ráp nối phi thuyền mẹ
với Nguyệt xa, tiếng nói của những phi hành gia được chuyền thẳng về
trái đất rõ mồm một. Trước thành công như trên làm sao tôi không hoan
nghênh? Nhưng tổng quát tôi vẫn không thán phục, kết quả cũng không có
gì cụ thể để giúp ích cho một khối dân khốn cùng nằm dài trên hai cõi Á,
Phi. Trong khổ cực của quê hương này tôi không thể nào quá ngưỡng mộ
thành công ở trời xa. Nhưng tôi chịu nhất là thái độ phóng khoáng, cử
chỉ hào hiệp của người Mỹ trong vụ này, họ đã hãnh diện dưới danh nghĩa —
Một sự tiến bộ của nhân loại. Sự rộng rãi này làm cho tôi kính phục.
Ngoài ra một hôm có việc cần phải vào bệnh viện 3 Dã chiến Hoa Kỳ, thấy
một anh lính Mỹ đẩy chiếc xe trên có một anh khác bị thương ở chân, anh
chàng đẩy xe cũng là thương binh, gầy ốm, tóc vàng hoe mọc dài xuống
gáy, mang đôi kính cận thị dày cộm, nét mặt hồn nhiên và treœ thơ. Và
tôi đã nghĩ rằng khuôn mặt trẻo thơ đó, nếu đem biến thành đối tượng cho
những nhận xét hằn học đầy thù nghịch của tôi thật đáng tội nghiệp.
Chiến tranh đã kéo y qua đất nước này, chịu đựng những khổ cực vượt ra
ngoài ý niệm của người Mỹ, nay bị thương đôi mắt vẫn còn trong sáng và
trẻ thơ — Dấu hiệu của tâm hồn chưa bị vấy bẩn bởi cuộc chiến này. Nhìn
sự ngây thơ trung thực đó, nghĩ đến những phán đoán của mình quả độc
đoán và quá độ.
Gần hai năm nay, mỗi ngày phải uống tám viên
Nevrosvitamin 4 để làm dịu xuống những bứt rứt hiện thành phản ứng không
kìm hãm... Thiếu những viên thuốc đỏ đó, người tôi như nung trên một lò
lửa đang đỏ, đầu óc muốn nổ tung, chân tay ít nhất phải đập phá một vật
gì, tôi sợ tiếng động và chốn đông người một cách bất thường. Nhưng hai
tháng sau này tôi bỏ được nhu cầu uống thuốc đó, suốt ngày đánh trần
nằm trên bãi cỏ trước phòng ngủ, doanh trại hậu cứ hoang vắng một cách
dễ chịu, phía xa những ngọn đồi Tăng Nhơn Phú chạy dài bình yên. Trong
sự bình yên này, đọc lại những điều đã viết quá trớn, thấy ân oán giang
hồ, đụng chạm đến nhiều giới. Tôi muốn đưa cuốn sách cho những người nhỏ
tuổi đọc, để dò xem phản ứng của những người chưa bị ảnh hửơng cuả
chiến tranh, nhưng ngần ngại vì thấy những điều mình viết không trong
sáng. Lẽ tất nhiên một cuốn bút ký không thể nào nằm dưới kìm kẹp của ý
thức luân lý bình thường được, hơn nữa bút ký về cuộc chiến tranh nhọc
nhằn. Nhưng nhìn thấy toàn bộ những điều đã viết chỉ có một nỗi hằn học,
uất hận nên tự hỏi rằng có quá đáng hay không? Thấy đàn trẻ đi thi tú
tài, nhớ lại mười năm trước cũng ở trong nguồn trong sáng đó, thế tại
sao có những đổi thay tàn bạo và quá đáng như kia?
Tôi lại gặp Banh, người bạn cũ ở Đà Nẵng, gặp Banh
để nhớ lại một cái Tết thật tang thương, hai mươi chín Tết không thức ăn
- hai mươi chín tết - thời gian thật khó thể đi kiếm một bữa cơm. Banh
đạp xe trên hai mươi cây số về làng quê Quảng Nam xin mươi quả trứng
vịt, và hai đứa đã đón xuân bằng những quả trứng trong suốt ba ngày Tết.
Gặp Banh để nhớ rằng trong những ngày khốn khó đó, tôi vẫn luôn luôn
thắp sáng cho mình ngọn lửa hy vọng và những tình cảm tốt đẹp.
Những sự kiện kể trên gây cho tôi cảm giác ngại
ngùng khi đọc lại những điều ghi được của tám năm binh lửa. Không lẽ
suốt đoạn đời này tôi chỉ có khốn khó và thù hận thôi sao? Từ đó phát
sinh ra những ý hướng chối bỏ, như dấu chàm của một niềm tuỉ hổ, và ao
ước được thấy điều mình viết mang niềm vui hồn nhiên trong sáng. Nhưng
tám năm lính của tôi niềm vui quả thật ít, ít đến tội nghiệp khi đem so
sánh với nhọc nhằn đằng đẵng. Tám năm, thời gian gần bằng đoạn đời của
gã nông phu Johann Moritz lang thang qua các trại tù của giai đoạn Âu
Châu máu lửa, nhưng trước và sau tám năm đó, anh bạn Lỗ còn có những
ngày vui hy vọng. Tôi có gì vui trước tám năm này và hy vọng nào về một
Việt Nam hậu chiến. Nhưng thôi, có nói hoài thì cũng chỉ kéo dài thêm
lời than thở hèn mọn. Điều mong ước là được xóa đi những hằn học và thù
hận. Sự đụng chạm nếu có ở một vài đối tượng nào đó thì xin nghĩ rằng
đây chỉ là những ý nghĩ của một người muốn chân thật với mình trong hoàn
cảnh khắt khe. Lỗi không phải là ở sự thành thật đó. Đây là lỗi của một
cảnh đời. Tội của những người trong chúng ta đã bất lực trước định
mệnh, để bị cuốn trôi hết tình người — Thôi, đây là tội trong mỗi chúng
ta.
10 tháng 9 năm 1969
Long Bình Việt Nam
No comments:
Post a Comment