Bây
giờ, một giờ chiều của ngày 24-7-73, cuộc trao trả tù dân sự tại địa
điểm Lộc Ninh đi vào bế tắc. Cộng sản tập trung một số đông dân chúng và
cán bộ chung quanh lều trao trả tạo áp lực vào khối tù nhân đang và sắp
được trao trả, số người này sẽ được dàn cảnh ào hẳn vào lều trao trả để
tạo nên những cảnh hỗn loạn như đã xảy ra tại Quảng Trị, Quảng Ngãi.
Tôi đã quá đủ với chiến thuật gây rối này, đồng thời chỉ thị cũng đã
nhấn mạnh: Nếu cộng sản vi phạm thủ tục thì phải hoãn trao trả. Cuộc
trao trả tạm ngưng, tôi cùng Trung Úy Nội sắp sửa trận đánh tuyên bố
đình hoãn trao trả và quy trách nhiệm cho Việt Cộng vì họ đã gây trở
ngại cho công tác. Những lý lẽ này phải được thông báo chính thức cho Ủy
Ban Quốc Tế, minh xác quan điểm của Việt Nam Cộng Hòa. Hôm nay là ngày
công tác chót của phái đoàn Gia Nã Đại và những người trong Ủy Ban Quốc
Tế cũng đã thấy rõ được thực chất và khả năng của nhau sau sáu tháng
hoạt động. Những điều khoản của Hiệp Định, Nghị Định Thư quả tình đã bị
vô hiệu hóa trước tình thế và thực trạng của Việt Nam, chưa nói đến sự
cứng rắn bất chấp vô liêm sĩ của hai phái đoàn Ba Lan, Hung Gia Lợi. Họ
đã đánh mất tư cách “Quốc Tế” của Ủy Ban khi khai triển tối đa sự nhất
trí đoàn kết giữa những người cộng sản. Sáu tháng qua hàng chục lần trao
trả ở nhiều địa điểm, tôi đã quá não nề với ủy ban “Quốc Tế” này, nhưng
lời lẽ thông báo sắp nói vẫn giữ đúng cốt cách trang nghiêm của một
“đại biểu”.
Kính thưa quí vị, trước tiên là lời cám ơn nồng
nhiệt của chúng tôi. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, vì quí vị đã đến đây
giám sát và quan sát cuộc trao trả... Đồng thời trình bày cùng quí vị lý
do vì sao chúng tôi phải tạm đình hoãn cuộc trao trả...
Anh Trung Uý Nội vặn vẹo mấy chữ Ăng-Lê để phiên
dịch. Tôi lim dim mắt vì ánh nắng nhưng thật ra đang dò xét xem phản ứng
của anh Thiếu Tá Vầy (Việt Cộng) để tìm hiểu ý định của hắn ta. Thoảng
trong tiếng gió có tiếng hát cao vút vang vang, tiếng hát hòa nhịp bởi
âm thanh của một chiếc Tây Ban cầm... Quê hương, hòa bình, cầu mong hết
chiến tranh, những bài hát của Phạm Thế Mỹ, Trịnh Công Sơn được diễn tả
bởi giọng hát tuy không điêu luyện sành sõi nhưng vang dội nhiệt tình
trong sáng. Những người sinh viên “tranh đấu” được trao trả ngày hôm qua
(23-7) nay đang tập họp trong một chiếc lều gần lều của chúng tôi để
đợi được phát biểu nguyện vọng với Ủy Ban Quốc Tế, đồng thời yêu cầu tôi
(chuyển qua lời của viên Thiếu Tá Việt Cộng) ký nhận và bảo đảm cho họ
trở về Sài gòn trong tư thế nguyên thủy. Chỉ là những sinh viên tranh
đấu cho hòa bình dân tộc.
Nhóm sinh viên gồm hai mươi người, có những người
“nổi tiếng” như Võ Như Lanh, Trịnh Đình Ban, Cao Thị Quế Hương, Trần Thị
Lan, Trần Thị Huệ, Nguyễn Thành Công. Tất cả can tội phá rối trị an vì
các vụ biểu tình xuống đường đòi hủy bỏ chế độ quân sự học đường, chống
chiến tranh, chống Mỹ, chính quyền Tổng Thống Thiệu và đòi quyền sống.
Tôi trình bày ý kiến cũng để trả lời cùng Vầy:
- Những người này được trao trả vào các đợt 7, 8
của ngày hôm qua 23-7 tại địa điểm này và hôm nay họ đưa yêu sách chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa phải nhận họ lại, trả tự do vô điều kiện và cam
kết không bắt giữ lại. Với vị thế là một nhân viên Ban Liên Hợp Quân Sự
phía Việt Nam Cộng Hòa, tôi từ chối xác nhận cam kết này vì tội trạng
của những người trên đã cấu thành bởi hành động được ghi rõ trong hồ sơ,
tôi cũng không thể nhận họ về với tư cách “chỉ là những sinh viên học
sinh bị bắt giữ vì tranh đấu” vì như thế là gián tiếp phủ nhận tính chất
của công tác trao trả. Đây là cuộc trao trả giữa hai bên miền Nam về
những nhân viên dân sự bị bắt giữ. Tôi cũng không có khả năng để cam kết
một điều khoản vượt quá xa trách nhiệm của một sĩ quan trung cấp, hơn
nữa trên thực tế những người này đã được trả ngày hôm qua, hôm nay phía
Việt Nam Cộng Hòa không còn trách nhiệm nào với họ (theo thủ tục trao
trả, lời phát biểu nguyện vọng chỉ có giá trị khi cuộc trao trả đang
diễn tiến mà thôi).
Tôi chấm dứt vần đề bằng những lý lẽ có hệ thống,
các viên sĩ quan của Ủy Ban Quốc Tế gật đầu tán thành, ngay cả những anh
Ba Lan và Hung Gia Lợi thường ngày vốn yểm trợ Việt Cộng ra mặt nhưng
hôm nay trước tính chất “lô-gích” của sự việc cũng đành phải ra chấp
thuận lý lẽ của chúng tôi. Tôi nói tiếp:
- Tóm lại, vấn đề hai mươi sinh viên học sinh này
đã được vượt khỏi giới hạn của chúng tôi và quí vị (chỉ UBQT) vì nhiệm
vụ “chúng ta” chỉ là quan sát cuộc trao trả những nhân viên dân sự thuộc
hai bên miền nam Việt Nam, nay những người sinh viên này bảo rằng họ
không thuộc hai thành phần đó, nhưng là một thành phần “thứ ba” trung
lập... Thì tôi nghĩ rằng, vấn đề cũng đã ra khỏi điều 7 của Nghị Định
Thư (điều 7 Nghị Định Thư chỉ nói đến việc trao trả Nhân viên dân sự hai
bên miền nam Việt Nam). Tôi dứt điểm cú chót bằng bằng cớ rất cụ thể:
Các điều khoản của Hiệp Định và Nghị Định Thư.
Các anh Ba Lan và Hung Gia Lợi thở dài, trao đổi ý
kiến để kiếm đường giúp đồng chí nhưng cuối cùng chỉ phát biểu một ý
kiến rất não nề: “Chúng tôi ghi nhận sự kiện về các người sinh viên...”
Tôi thắng cuộc, một trở ngại lớn của vấn đề trao
trả đã được vượt qua. Nhưng đó chỉ là tôi một phía, phía của công vụ,
của con người bổn phận được ấn định bởi bộ quần áo đang mặc, cấp bậc
trên cổ áo. Còn có một phần người khác đang lãng đãng giữa một vùng
phiền muộn hiu hắt, phần con người đang nghe những câu hát lồng lộng,
con người đang nhìn thấy những ánh sáng trong vắt vị tha trong tia nhìn
của hai mươi người tuổi trẻ. Vấn đề của họ không bao giờ giải quyết
được.
Phải nói thật, từ lâu nay tôi vốn không tin phẩm
cách và khả năng của lớp sinh viên tranh đấu, những người tuổi trẻ xuống
đường với những mục tiêu chiến thuật đoản kỳ như chống quân sự học
đường, chống động viên, chống chính quyền, người Mỹ và chiến tranh.
Những sinh viên trong nước như Huỳnh Tấn Mẫm, ở nước ngoài như Đoàn Hồng
Hải, Nguyễn Thái Bình... Trong tư thế một người lính tác chiến, chịu
những khổ ải và đau đớn cụ thể nhất của chiến tranh, sống trong lòng
cuộc chiến tàn ác phi lý, lạ lùng, tôi đã cố gắng hết sức để tồn tại
đồng thời tìm lời luận giải thích cho hành động. Thế nên dù có “phản
chiến” đến mức độ nào chăng nữa, sẽ vô cùng phi lý khi quy trách nhiệm
cuộc chiến này lên chính phủ và người lính Việt Nam Cộng Hòa: giai tầng
đau đớn nhất của cuộc chiến. Tôi không thể nào chấp nhận những luận cứ
buông súng vô điều kiện, những lý lẽ hàm hồ hoan nghênh sự chiến đấu hợp
lý của những người lính cộng sản và thái độ thời thượng chống chiến
tranh ở hình thức khả ố, bệnh hoạn. Trong khoảng tháng 7-1972 tôi viết
một bài đả kích đám sinh viên này ở tuần báo Diều Hâu, một bài báo bốc
lửa, cấu tạo bởi những từ ngữ mạnh mẽ dậy nên từ một tâm thức phẫn nộ,
bài viết đã cấu thành sau khi ở miền Trung từ thành phố dẹp Quảng Trị,
dọc Đại lộ Kinh Hoàng trở về... Tôi đã viết bài báo với cơn giận làm run
tay, trước mắt chập chờn những mảnh áo cháy xém bay phất phơ trên đồng
cát xám từ những xác chết co quắp. Những người dân bị pháo cộng sản chết
trong ngày 1-5-1972. Lòng tôi căng thẳng trên hình ảnh tai ương uất ức
đó; thế nên, nhìn mặt chiến tranh, cố tìm hiểu lý do tại sao người cộng
sản đã giết người tỉnh táo đã là ám ảnh não nề hằng mỗi giờ, mỗi ngày
khi đối diện với những kẻ thù còn rất mới qua chiếc bàn rộng trải nỉ
xanh. Trong tình huống này, tôi nhìn Ngô Bá Thành, Trần Ngọc Châu, Huỳnh
Tấn Mẫm như những kẻ mắc chứng dở hơi bị ám ảnh bạc nhược, được thôi
thúc hướng dẫn bởi một khối chỉ đạo tinh ma già ngọn, hơn thế nữa tôi
đồng hóa họ với những kẻ giết người. Thời đại này xây dựng trên tan vỡ,
mâu thuẫn và phi lý, cả một khối đông nhân loại đang bị đốt cháy dưới
tiếng chuông cầm thú kiểu thí nghiệm Pavlov, tiếng chuông bỉ ổi này vang
động những danh từ đẹp đẽ: Giải Phóng, Tự Do, Hòa Bình... Nên lũ người
phản chiến reo hò trong đường phố Sài Gòn, nơi công viên Mỹ Quốc theo
sau chiếc hot-pants của ả đào cởi truồng Jane Fonda, thật đang đùa cợt,
hân hoan sỉ nhục những cái chết đau đớn của người dân Việt Nam. Tôi nhìn
những người “tranh đấu” qua nhãn quan khắc nghiệt uất hận này.
Nhưng hôm nay, khi nghe tiếng hát trong sáng lồng
lộng trong gió, khi thấy nét mặt tinh anh của Nguyễn Thành Công lúc tiếp
xúc với viên Đại Tá Hung Gia Lợi dù đôi mắt đã có vẻ lạc thần, giọng
nói đã đượm màu mệt mỏi. Tôi thấy được một điều lạ ở những người tranh
đấu, tôi tìm được kẽ hở của vấn đề, lời giải thích về hiện tượng phản
chiến đồng thời có nỗi hận khác bùng nổ theo với tốc độ chóng mặt: Quả
tình Cộng Sản đã và đang hủy diệt hằng bao thế hệ bởi ngọn đòn sơ đẳng:
Thêu dệt và lập đi lập lại một số danh từ hàm súc trong một hệ thống
luân lý chặt chẽ để quyến rũ con người theo tiếng gọi của máu. Sự khám
phá gây nên nỗi giận hờn chen thêm niềm thương cảm xót xa. Tôi đã biết.
Phải, tôi hiểu rằng nhóm sinh viên đang ngồi ở dưới
tàng cây cao su, đang gẩy nên những âm thanh trầm lắng với tiếng hát
nhiệt thành trong sáng kia quả tình không thể nào là những người cộng
sản được. Họ không thể nào là những người cộng sản chuyên chính, dù cho
họ đã vào khu học tập, dù đã là cán bộ nội thành làm nhiệm vụ sinh viên
vận theo đường lối và kỹ thuật đấu tranh phát xuất từ cục R, kiểm soát
và điều hành bởi ủy viên thanh niên thuộc Thành Ủy Sài goon-Chợ Lớn. Họ
cũng không phải là cộng sản dù có chứng minh thư xác nhận là thành viên
của Đảng Lao Động, hoặc thành viên của Đoàn Thanh niên trong Mặt Trận
Giải Phóng... Vì tiếng hát, điệu đàn, nét mặt và lời nói tất cả vẫn là
phản ảnh của một hoài bão, hoài bão bất diệt của tuổi true. Muốn thoát
khỏi hoàn cảnh bít bùng của đời sống hiện tại, đấu tranh và xây dựng một
quê hương rạng rỡ tốt đẹp hơn. Và chính phát xuất từ ý định đẹp đẽ mơ
tưởng này, hoài bão của họ đã được đồng hóa với mục tiêu chiến thuật
đoản kỳ của cộng sản. Và họ trở thành loại cán bộ tiền phong đắc lực
thực hiện những mục tiêu hạn chế trong đường phố Sài gòn, nơi giảng
đường, trong lòng cộng đồng tuổi trẻ Việt Nam. Bởi Cộng sản không bao
giờ dại dột lộ hẳn bộ mặt của mình từ đầu, trái lại chúng đã “phục kích”
tuổi trẻ bằng cách “tặng” không một số sách lược tranh đấu, cung cấp
phương tiện và kỹ thuật sách động (Vì còn ai hơn người cộng sản Việt
Nam, khối nhân lực vô tận luôn luôn gài người, xách động, hướng dẫn các
cuộc đấu tranh, dù bắt đầu với những mục tiêu lành mạnh, hữu khuynh)...
Dần dần cán bộ cộng sản đưa ra một vài mục tiêu “chiến thuật” như chống
đi lính cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, được ngụy trang thành chương
trình chống quân sự học đường, động viên, những mục tiêu đoản kỳ nhưng
sinh tử đối với sinh viên. Và cứ thế tiếp tục xâm nhập dần vào phong
trào đấu tranh để biến thành vận động chống chiến tranh, thực hiện hòa
bình cấp thiết... Mục tiêu dần lộ mặt cùng với những vận động khắp nơi
trên thế giới. Vô tình để trở nên hữu ý, những người xuống đường dần
thấy những ước vọng to lớn của mình phù hợp với cương lĩnh của Mặt Trận,
nên từ chống Mỹ, chống quân sự học đường đến chống Mỹ cứu nước chỉ là
bước nhỏ của vấn đề kỹ thuật. Cuối đường, chính thể Việt Nam Cộng Hòa
cùng cộng đồng miền Nam tự động biến thành những đối tượng thù nghịch
khi đã thấm sâu lý luận:”Chiến tranh Việt Nam là chiến tranh cách mạng
chống với chiến tranh phản cách mạng do Mỹ Ngụy khởi xướng. Chiến tranh
Việt Nam khởi động do nhân dân giác ngộ yêu nước, được sự ủng hộ của
toàn thể nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới...” Khi đã chấp
nhận những chữ “hòa bình, giác ngộ, cách mạng” nằm đúng vị trí trong hệ
thống luận lý của cán bộ cộng sản thì tất cả năng lực sáng suốt để soi
sáng cuộc đấu tranh hoàn toàn tắt ngấm. Người sinh viên diễn xuất theo
động tác phản ứng có điều kiện gợi nên từ những danh từ đẹp đẽ trên.
Nhưng, như đã nói, những người tuổi trẻ đó sẽ không
bao giờ trở thành cán bộ nồng cốt của Đảng Lao Động được vì họ không
bao giờ là “giai cấp công-nông”. Họ cũng không phải là tiểu tư sản giác
ngộ; họ chỉ là những tên lính tiền phong trong đường phố Sài Gòn, nơi
buổi họp báo tại trụ sở sinh viên, họ chỉ dùng để chạy tránh hơi cay với
một túi ni-lông pha nước chanh, để làm đầy các nhà giam giúp cho cộng
sản có thêm lý lẽ: “Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã bắt giam nhiều sinh
viên học sinh yêu nước...” Và nặng nề hơn hết thảy: Người sinh viên vẫn
còn là “những sinh viên học sinh yêu nước” - Nghĩa là còn một bản vị
sinh viên, một cá thể sinh viên, một nhân vị yêu nước... Không bao giờ
là “người cộng sản” khi vẫn còn mang tước hiệu đẹp đẽ đó. Người sinh
viên, gã anh hùng trong đường phố không bao giờ là người cộng sản thuần
túy. Không có trường hợp đặc biệt cho trường hợp những cá nhân này.
Thế nên, khi điều động một số dân chúng và binh sĩ
đến để nghe các “sinh viên yêu nước” hát, cán bộ cộng sản đã xác nhận
lại vị thế cho các anh, đã nhắc nhở sự xa cách giữa “thành phần sinh
viên trí thức” và tầng lớp “công nông giác ngộ”, họ đã vạch một ranh
giới giữa các bản vị sinh viên và tập thể nhân dân kia, khi họ để anh
mặc chiếc áo trắng đẹp nổi bật lên giữa đám dân chúng và binh sĩ cộng
sản nghèo đói, xấu xí cũng là lúc tô đậm chữ khai trừ các anh ra khỏi
tập thể đấu tranh của Mặt Trận và sự thật cũng vừa xảy đến. Các anh có
đấu tranh được những gì ở địa điểm Lộc Ninh, trong lòng người cộng sản.
Vai trò anh đã hết. Những người sinh viên tranh đấu Sài Gòn hãy hát cao
lên nữa; tiếng hát đó cũng như một lần của Phạm Duy cất lên từ khu tư,
trên nương đồi Yên Bái, trên thượng lưu của những giòng sông miền Trung
với khí thế say đắm hào hùng và lãng mạn của những ngày “cứu nước” từ
mùa Thu 46. Giọng hát của các anh giờ này cũng mang tính chất đẹp đẽ thơ
mộng hào hùng đó. Và chỉ có thế, vì bản chất cuộc chiến đã thay đổi,
con người đã lộ mặt, vai trò của các anh cũng đã hết, sân trường, đường
phố đã xa xôi. Các anh đã lỡ làng trong cơn say đắm của buổi tiệc rượu
nấu bằng máu của quả tim nhiệt thành.
Đây là phản ứng thứ nhất, phản ứng thương cảm, bội
phục, trong lòng còn có một phản ứng đối nghịch đau đớn khác: Sự giận.
Phải, tôi giận dữ, vì những người tuổi trẻ trong lòng cộng đồng miền Nam
đã được nuôi dưỡng và lớn lên từ thực trạng đau đớn quê hương. Hơn ai
hết, họ phải thấy được bản chất của cuộc chiến Việt Nam. Kết quả tất
nhiên của những cường lực thế giới đang tìm cách thế để hòa giải, cân
bằng lẫn nhau. Những người sinh viên lại càng phải biết rõ hơn ai hết,
thủ phạm gây nên tiêu hủy cấu trúc xã hội ổn định Việt Nam đã trường tồn
và vững chắc qua hai nghìn năm dài, một xã hội trật tự, điều hòa, trong
đó các giai cấp đã được vô tính hoá, xung đột xã hội được hòa giải do
tính chất tổng hợp cùng mạch sống dân tộc. Lẽ tất nhiên tôi không mê
muội gì để bảo rằng hai nghìn năm lịch sử của nước ta là mô thức lịch sử
không kẽ hở; nhưng quá trình vận chuyển lịch sử ấy đã chứng minh tính
cân bằng của cơ cấu xã hội Việt Nam, đã là một kết quả tuyệt kỹ. Và như
thế, những người tuổi trẻ, lòng mở rộng vị tha, trí sáng ngời hoài bão
và tình tự quê hương, thấm đậm cùng nhịp đập của trái tim trung trực lẽ
nào không nhận thức được: Chiến tranh này, chỉ là kết quả cuối cùng của
chuỗi nổ dây chuyền gây nên bởi xung động của hai ý hệ cùng phát xuất từ
phương Tây, hai ý hệ tuy mang nhãn hiệu đối cực nhưng thực chất cũng
chỉ là một phản ảnh biểu hiện tình trạng tan vỡ, suy đồi của cơ cấu xã
hội xây dựng trên vật chất thuần lý. Cộng sản, tư bản, tự do, dân chủ,
giải phóng, độc tài, thuộc địa: quả tình chỉ là sản phẩm thuần túy Tây
phương và chỉ dành riêng cho những xã hội bên bờ Thái Bình. Nhưng khốn
nạn đã xảy đến cho chúng ta, những ý hệ xung đột đó đã chọn lựa đất nước
này làm chiến trường tranh chấp, đã cân bằng, hòa giải, cùng nhau qua
máu xương người Việt. Những người tuổi trẻ phải biết rõ điều này, phải
biết rõ trước khi lên đường nhập cuộc, trước khi dự vào trò chơi lớn mà
dịp may không bao giờ có, chỉ có một đường sống hay chết cho cá nhân,
cũng của cả dân tộc. Thế nhưng những người trẻ tuổi chỉ có một phía
nhìn, chỉ có lời giải thích (Thật lố bịch khi đang ở một giai đoạn lịch
sử và tự giải thích giai đoạn ấy theo tiêu chuẩn của mình định đặt) và
nguy biến hơn, nhất quyết tin tưởng mình đi đúng đường. Chỉ riêng một
mình với cục bộ lý luận riêng.
Những người tuổi trẻ tranh đấu còn mắc thêm một
nhược điểm trầm trọng, nhược điểm cốt tủy hình như đã biến thành tổng
quát khắp thế giới. Mặc cảm vô vọng đau đớn của người trí thức. Đúng như
thế, từ Tây qua Đông trong lòng của Paris rực rỡ đến những góc hóc hẻm
của một nước nhược tiểu Á Đông, đâu đâu cũng có một lớp trí thức lòng
đầy những ước vọng nhân bản, những hoài bão tuyệt vời nhưng giữa vòng
đai ngột ngạt phi nhân của xã hội. Người trí thức trong khi ý thức về
giá trị của mình đồng thời cũng thấy hết nỗi tuyệt vọng bi đát của khả
năng hạn chế. Vì đây không còn thời đại của cá nhân nhưng là thời của tổ
hợp, không còn những thi sĩ, chỉ có giai cấp công nhân, không còn tri
thức lẻ loi giữa vòm trời trí thức nhưng là con người nhập thế để chịu
sự va chạm toé lửa phũ phàng của đời sống. Và đây cũng là thời đại đối
nghịch của tâm linh, những giá trị tinh thần dần dần trở nên hạ giá
trước những hệ Sinh Tâm lý. Trong cơn đổ nhào của giai cấp kẻ sĩ, người
tuổi trẻ tranh đấu chắc sẽ không ngại ngùng tham gia ngay vào thế giới
nơi chiếc chiếu hoa kính trọng đã dành sẵn cho những Sartre, Gide,
Malraux, những người đã thử lửa với Cộng sản để dò xem năng lực trí thức
của mình; và ở Việt Nam, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn
Đăng Trừng, Lê Hiếu Đằng. Nếu không võ đoán, thì ắt hẳn khi họ nhúng tay
vào máu cũng mang cảm giác hân hoan của người được gột rửa những bạc
nhược bất lực của khối trí thức tuyệt vọng để chuyển mình thành những
trí thức giác ngộ, yêu nước. Nguy biến đã xảy ra, tan vỡ đã hiện hình,
người trí thức tuổi trẻ ắt hẳn trong núi rừng mật khu chắc phải tự kiểm
thảo quá trình tranh đấu để nhận thức lại giá trị của chính mình. Chỉ là
người trí thức khi mang tâm thức xao xuyến ở đường phố Sài Gòn, trong
giảng đường đại học và đã là người lạc lõng, ngơ ngáo giữa một đám “đồng
chí” cách biệt, giác ngộ, lẫy lừng bởi thành tích và gốc gác giai cấp.
Hoàng Phủ Ngọc Tường, tên tuổi sáng chói của lớp sinh viên tranh đấu Huế
nay là một ủy viên học vụ ở Gio Linh, cuối đường đấu tranh của nỗ lực
trí thức với kết quả tầm phào mạt hạng...(1) Trịnh Đình Ban, Trần Thị
Huệ sẽ là gì ở núi rừng Lộc Ninh?!! Hình ảnh trong buổi sáng 24-7, tên
Trung Tá gốc “thợ rèn” Năm Tích nửa vừa ra lệnh, nửa vừa coi thường sửa
tay sửa chân cho Trịnh Đình Ban để chụp ảnh gây trong tôi cay đắng...
Cuối đường tranh đấu chống Mỹ, chống chiến tranh của tuổi trẻ trí thức
rốt cuộc để được cười hãnh diện vì chụp ảnh cùng Trung Tá Năm Tích, một
cựu thợ rèn, lớp cán bộ mùa thu với quá trình đấu tranh cách mạng mà
suốt đời Ban không bao giờ thực hiện được. Có phải thế không?! Có phải
thế để tiêu hủy mặc cảm dư thừa của đời sống ù lỳ cứng đọng của ba mươi
năm trong gia đình và học đường... Người tuổi trẻ tranh đấu, anh thấy gì
trong tàng cây cao su xanh thẩm ở rừng Lộc Ninh?
Lộc Ninh - 24-7-1973
No comments:
Post a Comment