Tiếng
Việt qủa thần diệu, có những chữ thật đơn sơ cũng đủ sức để tạo thành
hình ảnh linh động. Những chữ với âm thanh tầm thường khô cứng như tiếng
gõ vô nghĩa trên mặt bàn của một bàn tay nhàn rỗi, trong giây phút
trống rỗng. "ở lính" nghe buồn buồn, nhạt nhạt, vô nghĩa nhưng chất chứa
chịu đựng ngặt nghèo lặng lẽ. Tôi đã ở lính tám năm, sau thời gian đằng
đẵng đó những danh từ to lớn như đầu quân, gia nhập quân đội, người
chiến binh, đời quân ngũ hay thời thượng vụng về như tuổi lính, tuổi
chiến trường đối với tôi vô duyên như sau lần ân ái ngượng ngùng.
Tôi ở lính tám năm, năm nay hai mươi sáu, đi lính
năm mười tám. Suốt tám năm của thời lớn lên tôi đem tặng hết cho quân
đội, và không phaỉ đến bây giờ vì thất vọng, chán nản do công danh không
toại ý, cuộc sống bị ép buộc không đúng như mơ ước nên cay cú hằn học
với nhà binh. Không như vậy, tôi đi lính năm mười tám tuổi vào học
trường tình nguyện ra làm ông quan Một. Chẳng có ai lôi kéo tôi vào
trường ấy, tôi tự động hăng hái, hãnh diện để trở thành một sinh viên sĩ
quan với ý nghĩ đã chọn đúng cho mình hướng đi, một chỗ đứng dưới ánh
mặt trời. Tôi có những rung động thật thành thực khi đi trong rừng
thông, hương nhựa thông toả đặc cả một vùng đồi, sung sướng vì thấy đã
đưa tuổi trẻ vào trong một thế giới có đủ mơ mộng và cứng rắn, một thế
giới pha trộn những ước mơ lãng mạn hào hùng... Chuyển quân đi trong
sương đêm, giữa mây mù, ánh lửa mục tiêu đêm đông trong hốc núi hoang
vắng, thế giới mạo hiểm giang hồ của Jack London phảng phất đâu đây. Tôi
say mê, thích thú với những khám phá mới mẻ đó. Nắng cao nguyên những
ngày cuối năm vàng tươi rực rỡ, đứng ở đồi nhìn xuống hồ suối Vàng trong
vắt yên lặng... Người như muốn tan vỡ thành muôn ngàn mảnh nhỏ theo cơn
gió bay chập chờn qua vùng đồi trùng điệp và loãng tan đi cùng nước hồ
xanh ngắt.
Cũng phảii nói thật những ngày đầu đời lính của tôi
đầy trong sáng và đẹp đẽ. Trong sáng như giấc mơ của tuổi mười chín,
giấc mơ mù mờ giăng cánh chim trắng bay chậm rãi qua rừng thông... Nhưng
đời sống nhà binh không hẳn chỉ vậy, nó còn có sĩ quan cán bộ, nghi lễ,
có đủ những phiền toái hỗn độn mà đời sống dân sự không ai nghĩ ra
được; nên khung trời đầy sương mù bí ẩn ngoài khung của sổ hiện ra như
một thách thức đối với đời sống kìm kẹp của tôi hiện tại.
Đây cũng là một thời gian thật khủng hoảng, mỗi đêm
nhìn về phía thành phố đầy ánh đèn tôi không ngủ được, tương như có
một tiếng gọi của đời sống ở bên ngoài quân ngũ đang nhắc nhở thúc
giục, một đời sống thực sự tôi không có. Từ khung cửa sổ nhìn những giàn
đồi im lặng thấp thoáng giữa thung lũng sương mù và đằng xa ánh đèn
xanh vườn Bích Câu ma quái, diễm ảo, tôi thấy rõ trong tôi nỗi cô đơn
khủng khiếp hiện hình sừng sững. Những lúc ấy tôi thấy được con người
thật của mình, một gã trai trẻ, vô định hướng. Những cười đùa ban ngày,
những buổi học, bữa ăn tập thể không ảnh hưởng gì đến con người trong
tôi. Không thể có được một ý niệm về chuyên môn quân sự mà bằng tất cả
mọi cách nhà trường cố nhét vào trong đầu óc. Đội hình tác chiến, cung
cách chỉ huy, chi tiết kỹ thuật về vũ khí trôi qua trí não mơ hồ như một
cơn gió nhẹ. Hai năm sống ở mái trường đó như một cơn phiếm du. Chỉ
thật thắm thiết rung động khi nửa đêm về sáng dưới ánh đèn pha vọng gác
kho đạn tôi khám phá được thế giới của cây cỏ đang thở, đang lớn lên.
Những giây phút khoảng năm giờ sáng, sau phiên gác, nhìn xuống phòng sĩ
quan trực, người lính kèn im lặng đưa lên môi thổi hồi kèn báo thức. Và
không gì hơn suốt ngày chủ nhật một mình một ngựa chạy như bay vào hướng
đồn Daksard. Con đường đỏ còn ướt sương đêm, trời chưa tan hẳn mù, ngựa
phi như gió cuốn, ngựa đi vào trong một vùng mù đặc, rừng thông chuyển
động ào ào, cả trời cao nguyên tan biến chập chờn theo vó ngựa. Kết quả
sau hai năm ăn nhờ chánh phủ tôi được trở thành ông quan một, ra trường
đi binh chủng hung hãn nhất.
Tôi biến thành một người lính thực thụ, trận lớn,
trận nhỏ, chiến dịch hai tháng, ba tháng, dài ngắn, từ Sài Gòn ra Bến
Hải, tôi đi đủ. Những địa danh xa xôi bất kỳ một xó xỉnh hẻm hóc nào của
miền Nam này tôi cũng có thể biết rõ một cách tường tận. Từ những miền
nổi tiếng như Khe Sanh, Cồn Tiên đến những làng nhỏ từ cửa Việt đi ra -
Diêm Hà Trung, Diêm Hà Nam - cái làng nhỏ cuối thung lũng sông Kim Sơn,
làng Hà Tây, đèo ông Hổ đổ xuống Phù Củ ra Phù Ly, Phù Cát thẳng đến
biển là núi Lồi, đầm Trà Ổ, xuống phía Nam, đầm Nước Ngọt. Lên đến
Pleiku, trực thăng vận xuống phía Nam biên giới Lào-Việt, đầu ngọn sông
Ia-Drang... Đâu đâu tôi cũng đến. Năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba tôi sống
thoải mái, vì đã đi đủ, nhìn đủ. Tôi cũng chấp nhận cho sự góp mặt ở
chiến cuộc, góp mặt để chấm dứt chiến tranh. Thắng bại không kể, nhưng
cốt yếu là không ở ngoài, không chạy trốn trong khi bạn bè những người
cùng trang lứa đang tham dự, đang ngã chết. Dù chết bên này hay bên kia,
chết trong thù hận hay chết tình cờ.
Những người đi tìm cái chết để biện giải cho đời
sống. Tôi tham dự vào cuộc hành trình khốn nạn này. Giải thích này làm
tôi yên ổn. Cũng trong những tháng năm đằng đẵng gian khổ ấy, tôi khám
phá ra được hạnh phúc của đời người. Hạnh phúc thật sự không có, chỉ có
những hạnh phúc tương đối và giản dị. Hạnh phúc là bếp lửa thật nóng,
bữa cơm có canh, một mái lều tranh không dột, căng được chiếc võng, uống
ly cà phê, đọc tờ báo, sau năm ngày vượt ba mươi cây số đường rừng,
rừng thật dầy không thấy trời, trong rét cóng của miền Trung vào những
ngày cuối năm. Hạnh phúc nồng nhiệt khi trở về nhà trong đêm khuya gõ
cửa, vợ ra đón với con nhỏ ba tháng, kể từ ngày sinh chưa được nhìn bố.
Hạnh phúc là cái gì chắc chắn, nắm được ở trong tay khi cánh cửa chiếc
phi cơ đóng lại và thân thể được nhấc lên trong độ cao, nhìn lại thành
phố Huế đang âm ỉ cháy. Đấy - đời lính - đã dạy cho tôi biết được giá
trị của những sung sướng tầm thường đó. Chỉ có thế mà tôi phải trả giá
trong tám năm thật dài với tận cùng của khổ cực và căng thẳng. Nhưng đến
hôm nay, bước vào năm thứ mười hai đời lính tôi lại rơi vào sự khủng
hoảng của những năm đầu tiên. Nỗi khủng hỏang tàn tệ tội nghiệp gấp vạn
lần trước. Thời gian ở quân trường, tôi còn có thế giới kỳ ảo thiên
nhiên, những ngày mới ra đơn vị, tôi tham dự để biện minh thái độ dấn
thân, lao vào lửa đạn không thắc mắc, không ngần ngại — Tôi dấn thân để
tìm kiếm niềm an ủi do tham dự hết lòng, đồng thời còn có điều khôn
ngoan đã tìm ra những hạnh phúc tương đối — Loại thực phẩm trần gian hợp
với khẩu vị. Nhưng đến những tháng ngày hôm nay thì qủa thực tôi bất
lực. Bất lực để giaœi thích cho chính bản thân, sự có mặt tham dự trong
dòng đời hỗn loạn và mệt nhọc này. Những chốn trú ẩn xưa bị phá vỡ tan
hoang, nếu không nói đến những phản ứng trái ngược đã xảy ra.
Trên đường đi đến Lái Thiêu, vườn dừa xanh ngắt,
hoa huệ trắng tỏa hương thơm ngát không gợi nên một thiên nhiên an lành
mơ mộng nhưng trái lại như một đối tượng đang phải chịu sự tàn phá sắp
tới của chiến tranh; một đối tượng đau đớn của thiên nhiên không được
thụ hửơng sắp sửa bị tiêu hủy. Những ngày dài hành quân không gây chịu
thích thú, không tạo mới lạ, chỉ còn lại chịu đựng... Chịu đựng im lìm
trong một niềm bất mãn đến ngộp thở. Tám năm lính, tôi hai mươi sáu
tuổi, số tuổi gần ba mươi, không bạn bè, xa bằng hữu, số tuổi cuả nỗi cô
đơn kinh khiếp biến con người hững hờ, tàn ác như một lát dao. Tôi hai
mươi sáu tuổi để thấy rõ cái mặc cảm phạm tội trước kia chỉ là một ảo
tưởng xa xỉ của tuổi mới lớn, ảo tưởng về trách nhiệm con người đối với
nhau. Tôi hai mươi sáu tuổi đủ để nhận rõ rằng: Hạnh phúc quả là một vật
ít ỏi tương đối, nhưng nếu mua bằng giá của đời sống mình thì thật vô
lý. Đành rằng sống chẳng là một cái gì rực rỡ nhưng nếu đánh giá đời
sống bằng khổ cực và cái chết thì thật là một việc rồ dại và ngu xuẩn.
Như vậy tôi hai mươi sáu tuổi có được gì? Tôi có được một cái nhìn thông
suốt hết cả. Nói như thế có vẻ tự kiêu và lố bịch. Nhưng nếu trung thực
hơn: Sau tám năm ở lính, tôi hết còn là vùng đất để nghiệm và chịu ảnh
hưởng. Tám năm ở lính để biết mình là một cánh chim tự do nhưng đã bị
chặt cánh. Chính thương tích này làm sáng tỏ khả năng tự do bi đát của
đời người.
Gần đây báo Sống tục bản dưới hình thức báo Công
Chúng có đặt câu hỏi: Người thời đại nghĩ gì? Trong đó có nêu lên chi
tiết ai là thần tượng cho tuổi trẻ hôm nay? Tôi hai mươi sáu không trẻ
lắm nhưng chưa già, cố tìm cho mình một thần tượng? Không có, làm gì có
thần tượng cho tuổi trẻ khốn khổ của tôi. Làm sao tôi có được một thần
tượng sau tám năm đằng đẵng đầy thù nghịch và ngặt nghèo. Người ta chỉ
tìm được thần tượng khi lòng còn rung động. Bây giờ tôi có rung động nào
trong tâm hồn? Năm vừa rồi đi đưa đám tang những thằng bạn thân, chỉ
thấy trong lòng một thoáng bâng khuâng, chả bù trước đây tôi ôm xác của
Phương, của Dũng chạy như điên trên sườn đồi nước mắt chảy dài trên má.
Chiều trở về chỗ đóng quân nhìn chiếc võng của người chết tưởng chừng
như thân thể sụp xuống tan đi trong vũng phiền buồn. Bây giờ tôi làm sao
khóc được, làm sao để phẫn nộ, để nhớ thương, để mong ước. Thần tượng
bây giờ là gì? Lãnh tụ? Lãnh tụ cỡ nào? Nhìn ảnh phó Tổng Thống Humphrey
trong báo US News & Report cùng những câu trả lời của ông ta trong
thời kỳ tranh cử Tổng Thống. Cái mồm nhỏ, trán hói, vẻ trai trẻ gỉa vờ
khi xắn quần chạy trên bãi biển thấy ngượng ngùng đến khó chịu. Hay loại
chính khách local?! Ô thần tượng cái khổ nào ở thứ lãnh tụ và chính
khách hạng nhì này... Hay là Mao Trạch Đông? Không được nốt, cái mặt ị,
đôi mắt ti hí, cuốn sách nhỏ chỉ hú hồn được thanh niên ở các nước Tây
phương. Tôi cố tìm suốt một dãy các danh nhân còn sống hay đã chết để
tìm cho được một người để ngưỡng mộ. Churchill? Cũng không được, đọc
Mémoire của ông ta, cuốn L’Étau se referme không chịu được thái độ bất
nhân đối với Nam Tư. Đến Exodux thì người Anh, ôi cũng là lũ thực dân.
Nhớ đến lần hành quân ở Long Khánh thì Úc hay Anh cũng vậy, cũng là God
save our King. Chả ra cái thống thế gì. Thế thì hết. Hết tiệt cái thế kỷ
thần tượng, vì nếu qủa thật còn một chút thần tượng nào vất tưởng ở
trên hành tinh này thì Jackie đã không xóa tan hình ảnh ông chồng rực rỡ
để đi theo ông thương gia có phòng tắm lót vàng. Sống bên cạnh một thần
tượng còn cho thần tượng đó "de" thì huống gì tôi, một kẻ da vàng xa xứ
của ông thì ngưỡng mộ gì ông được, hở ông Kennedy. Đó là chưa kể đến
nỗi hằn học mà ông Bob Kennedy để lại trong lòng những người lính Việt
Nam. Hay thần tượng ỏ một anh nhược tiểu? Ché Guévara cũng không được.
Đây chỉ là một loại James Bond cộng với Trần Độ mà thôi. Tóm lại thần
tượng tất cả đều bị chôn chặt, bị cuốn hút, bị xóa tên, chỉ còn lại một
vài thần tượng què quặt trên óc não bệnh hoạn, yếu đuối của một số người
chưa sống đủ, thần tượng của những kẻ nổi loạn thành phố, những kẻ mang
tâm trạng "bão tố trong cốc nước" những gã Mỹ con tóc dài, hippy, biểu
tình chống đối trước trường Sĩ Quan Trừ Bị Hoa Kỳ.
Sau tám năm ở lính,
tôi mệt mỏi vô ngần.
Chương 2: Đến Đơn Vị Mới
Ném chiếc va ly vào lòng xe GMC, tôi hì hục leo lên trước những cái nhìn soi bói của mấy người lính.
- Mẹ kiếp, lính tráng gì mất dạy thế này, ít ra
mình cũng là sĩ quan mà nó coi như cục đất thó. Tôi nghĩ thầm trong
bụng. Lên được xe,sửa lại thế ngồi thật chững chạc, lột chiếc nón đỏ
nhét vào ngực, tôi lướt mắt một vòng nhìn đám lính ngồi trước mặt. Những
đôi mắt đều lãng tránh. Một anh lính nhỏ bé từ chiếc băng đối diện lân
la qua hỏi chuyện:
- Thiếu Uý mới ra trường?
- Ừ.
- Thiếu Uý trẻ quá?
- Trẻ là làm sao? Trẻ quá không đi lính được à?
- Dạ. - Người lính bối rối cười cười. Tôi nhìn
xuống bộ kaki vàng đang mặc, so sánh với màu vải ngụy trang tác chiến
hoa của họ, thấy một xa cách.
Xe chạy ra xa lộ hướng về Biên Hòa. Tôi đi trình
diện đơn vị mới, Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù. Thế là lính thực thụ rồi, không
còn là lính cậu nữa, đã đến lúc trả nợ áo cơm cho nhà binh. Toàn thể
khung cảnh chung quanh có vẻ lạ lùng. Từ một chỗ đông bạn bè cùng lứa
tuổi, doanh trại đẹp đẽ to rộng, tất cả đời sống ngay thẳng, trang trọng
và trẻ trung. Bây giờ tôi đến đây, xách chiếc va ly đi giữa hai hàng
lính Nhảy dù, áo quần mới trông vào đã ghê, mặt mũi anh nào anh nấy đen
như một đôi giày bị lấm bùn. Khi thấy tôi đi qua, mọi người nhìn soi bói
chế riễu.
- Đ...m... Trông như thằng con nít!
Chết rồi, lính đã đánh giá mình như vậy thì chỉ huy
thế nào được. Tôi cố đi nhanh hơn, đến chỗ văn phòng Tiểu đoàn trưởng.
Trình diện xong, về đại đội trình diện Đại đội trưởng. Giờ cơm, lại một
màn giới thiệu với toàn thể sĩ quan tiểu đoàn. Bỏ bố rồi! Chẳng có anh
nào bằng cỡ tuổi, anh trẻ nhất coi bộ lớn hơn bốn, năm tuổi với vẻ
nghiêm nghị. Sống thế nào được trong thế giới lạ lùng này, biết bao giờ
mới tạo thành thói quen?! Ôi cái đơn vị mới gây cho tôi mệt nhọc biết
bao!
Buổi chiều, vài sĩ quan rủ tôi ra Biên Hòa chơi,
tôi chui vào chiếc xe của bác sĩ Đạm đi cho biết. Thành phố nhỏ bằng hộp
quẹt cả toán không biết đi đâu, đồng ý vào quán rượu ở gần ga. Đến chai
bia thứ ba tôi không còn biết gì nữa, có cánh tay nâng tôi ra xe...
Thành phố nhỏ bé, xôn xao chuyển động. Tôi thò đầu ra khỏi cửa nôn tung
tóe, nắng làm nhức cả mắt. Khi về đến phòng ngủ, chiếc giường sắt mới
lãnh chỉ dựng được hai chân, tôi ném tấm nệm dơ như đống rác lên đó rồi
ngã xuống trong cơn say, nhưng biết lòng mình đang phiền muộn.
Chiều nay là thứ bảy, tôi đã ở được bảy giờ trong
đơn vị mới, cởi áo bước ra hiên, doanh trại vắng vẻ lá cao su rơi xào
xạc, người lính kèn thổi bài kèn hết việc, bóng hắn đổ dài trên sân cờ.
Tôi cô đơn lạ lùng.
Tháng 11-1963. Biên Hòa
No comments:
Post a Comment