Wednesday, June 30, 2021

Thư của Tổng Hội TQLC


Thư của TH/TQLC  

BCH/TH TQLCVN xin giải trình chi tiết về  “Dự Án Xây Dựng Tượng Đài Tái Chiếm Cổ Thành Quảng Trị” của thành phố Westminster, CA.
Inline image


Inline image

 BCH /TH thật tình không biết dự án này bắt đầu từ khi nào, nhưng xem bản vẽ tượng dài do kiến trúc sư phác họa thì thấy đề ngày August 31, 2020 tức là ngày 31 tháng 8 năm 2020.

Đến ngày 13 tháng 12 năm 2020 -tức gần 4 tháng sau ngày phác họa bản vẽ-, Luật Sư Nguyễn Quốc Lân, thành viên của Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài (UBXDTĐ), liên lạc với Tổng Hội về tượng đài và gây quỹ.

Sau khi nghiên cứu thành phần UBXDTĐ cùng những chi tiết liên quan, BCH/TH đã trình lên Ban Cố Vấn & Giám Sát:

  1. Dự án này bắt đầu ít nhất đã trên 4 tháng, là vấn đề có liên quan đến Binh Chủng TQLC vậy mà họ không liên lạc với TQLC. Đây là điểm thiếu tế nhị, lịch sự căn bản nhất trong xử thế.

  2. Tại Nam CA là nơi UBXDTĐ có trụ sở chính nhưng tại sao họ không liên lạc trực tiếp với Hội TQLCVN Nam Cali và nhiều nhân sự có mối liên hệ trực tiếp với TQLC?! 
Inline image
Tại sao lại phải kiếm những người không sinh hoạt với tập thể TQLC.  Liệu có phải những nhà chính trị này cố tình gây chia rẽ Binh Chủng TQLC!?

  3. BCH/TH và Ban Cố vấn & Giám Sát có cảm tưởng UBXDTĐ này chỉ báo cho BCH/TH biết để hợp thức hóa việc đã xong và nay là giai đoạn gây quỹ cho tượng đài nên họ cần có mặt TH/TQLC để dễ gây quỹ.
Inline image

  4. Sư Đoàn TQLC đã hoàn toàn tái chiếm Thị Xã QT ngày 16 tháng 9 năm 1972.  Lễ dựng cờ chính thức lúc 12:45 g ngày 16 tháng 9 năm 1972 theo lịnh của Thiếu Tướng Bùi Thế Lân ,Tư lịnh Sư Đoàn TQLC và đã ủy nhiệm cho Lữ Đoàn Trưởng 258 TQLC thi hành.  Đại Tá Ngô Văn Định, LĐT Lữ Đoàn 258, xác nhận UBXDTĐ đã xử dụng không đúng hình ảnh chính thức của Lễ Dựng Cờ chiến thắng.
Inline image

Ngày 20 tháng 9 năm 1972 Tổng Thống VNCH và phái đoàn chính phủ đã được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lịnh Quân Đoàn I, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân , Tư lịnh SĐTQLC hướng dẫn  Tổng Thống đến thăm TQLC tại thị Xã QT.

  5. Binh Chủng TQLC được vinh dự là đơn vị sau cùng đã đánh đuổi quân CSBV xâm lăng ra khỏi Thị Xã và Cổ Thành Quảng Trị với 3658 chiến sĩ TQLC hy sinh và hàng ngàn chiến sĩ bị thương tật sau 55 ngày chiến đấu cam go với lực lượng địch phòng thủ có quân số đông hơn gấp 4 lần.

  BCH/TH từng nói rõ rằng: “chiến thắng Quảng Trị năm 1972 là một chiến thắng của sự quyết tâm, lòng dũng cảm quyết bảo vệ miền Nam của QLVNCH và đã đánh bại quân CSBV được sự hỗ trợ to lớn, liên tục của Cộng Sản Quốc Tế. Các đơn vị bạn như Không Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, và ngay cả các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân đều góp xương máu qua nhiều giai đoạn của chiến dịch.”

  BCH/TH TQLCVN cho rằng: “chỉ vinh danh SĐTQLC mà bỏ quên công lao các đơn vị bạn là một thiếu sót rất lớn , có thể làm rạn nứt tình đoàn kết của các hội đoàn quân đội.”
Inline image

  6. Nay trong Ban Cố Vấn UBXDTĐ được bổ túc và cập nhật trên website vào ngày 6 tháng 1 năm 2021, họ lại vội vã đưa nhiều nhân vật tên tuổi mà không có liên quan gì đến trận tái chiếm Thị Xã và Cổ Thành Quảng Trị . Đăc biệt có một điều thật khôi hài là UBXDTĐ đã tự động ghi tên Bà Vũ Tuyết Khanh, phu nhân cố TT Bùi Thế Lân vào danh sách cố vấn. BCH/TH đã liên lạc với phu nhân cố TT và bà xác nhận không có bất cứ cá nhân nào liên lạc với bà về vấn đề này. Như vậy UBXDTĐ đã làm một điều vừa phi pháp vừa bất lịch sự ,  không phù hợp với chức danh và chuyên môn của đa số thành viên của Ủy ban này. Phu Nhân cố Thiếu Tướng cần một lời xin lỗi chính thức từ UBXDTĐ.
Inline image

   7. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đã ra đi 7 năm trước đây, BCH/TQLC hiện còn Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư lịnh phó, 

 Đại Tá Ngô Văn Định LĐT/ LĐ 258 TQLC thế mà họ cố tình bỏ qua không liên lạc, lại đi mời một vài vị tuy có cấp bậc cao nhưng lại không hề có liên hệ, hoặc bất cứ hiểu biết nào về trận tái chiếm Quảng Trị năm 1972.
Inline image
Inline image

 Thưa quý NT,

Các Chiến hữu MX

    Ban Chấp Hành/ THTQLCVN rất bận rộn trong thời điểm hiện tại, nhưng buộc lòng phải dành thì giờ để giải trình vấn đề tượng đài một lần và  xác định không thể hợp tác với UBXDTĐ vì những lý do lẩm cẩm đầy hậu ý lắt léo của trò chơi chính trị như nêu trên.

   BCH/TH chân thành cám ơn quý NT trong Ban CV & GS luôn sát cánh để hướng dẫn cho BCH/TH hoạt động hữu hiệu, đúng đường lối và nêu cao tinh thần danh dự của Binh Chủng.

 Trân trọng.

TM/BCH/THTQLCVN

MX Lê Quang Liễn, THT

Mùa hè đỏ lửa 1972 ::Mường Giang::

Tờ mờ sáng chúa nhật 26-6-1950, bảy sư đoàn bộ binh Bắc Hàn, với quân số tổng cộng hơn 90.000 người, được yểm trợ bởi một lữ đoàn thiết giáp, gồm 150 chiến xa T-34 của Nga Sô và lực lượng không quân hùng mạnh với 135 chiếc oanh tạc cơ cùng chiến đấu cơ. Tất cả ngang ngược vượt đường ranh ngăn đôi tạm thời hai nước Triều Tiên, tại vỹ tuyến 38 để tấn công Nam Hàn.

Hai mươi hai năm sau đó, vào giữa trưa ngày 30-3-1972, nhằm mùa lễ Phục sinh của người Thiên Chúa Giáo, cũng là ngày thứ năm của tuần Thánh Holly Thursday. Lợi dụng mọi người đang xem lễ, cầu nguyện trong những giờ phút thiêng liêng, như dịp Tết Mậu Thân 1968. Cọng sản Ðệ tam quốc tế Hà Nội, mở một cuộc tấn công ác liệt nhất trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1955-1975) vào khắp lãnh thổ VNCH. Chỉ riêng mặt trận giới tuyến, Hà Nội đã xử dụng một lực lượng quân sự vô cùng hùng hậu trên 40.000 người, gồm các sư đoàn chủ lực 304, 308, năm trung đoàn biệt lập của B-5 là 126, 31, 246, 270, đặc công, hai trung đoàn chiến xa mang số 203, 204 gần 400 chiếc và năm trung đoàn pháo binh nặng. Tất cả đồng loạt vượt sông Bến Hải tràn qua khu phi quân sự, pháo tập và tấn công biển người vào lãnh thổ VNCH tại tỉnh Quảng Trị.

Hai trận chiến trên rất giống nhau và cũng khác nhau, giống vì cả hai hiệp định ngưng chiến Cao Ly và Việt Nam, đều do Liên Hiệp Quốc chủ xướng, được ký tại Postdam (7-1945) và Genève (20-7-1954), trong đó có Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt ký vào văn bản. Còn hai nạn nhân là Nam Hàn và Nam Việt, chỉ đứng chầu rìa lơ láo bên lề hội nghị, để nuốt máu lệ và nỗi nhục nhược tiểu mà thôi. Riêng Bắc Hàn và Bắc Việt đều là chư hầu của Nga-Tàu, trước sau và tới bây giờ vẫn là những đảng cọng sản quốc tế còn sót lại, cuồng tín, cuồng sát và hung hăng hiếu chiến, không thua gì Trung Cộng. Tất cả những thảm họa chiến tranh, từ mấy chục năm qua trên bán đảo Đông Dương và Triều Tiên, cũng đều do hai nước cọng sản này gây nên, qua sự chỉ đạo của đàn anh Nga-Tàu cùng khối xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt, đó là ngay khi Bắc Hàn hùng hổ lộng hành tràn qua vỹ tuyến 38, thì lập tức bị Mỹ và LHQ đánh đuổi trở lại bên kia giới tuyến. Nhưng đối với hành động xâm lăng trắng trợn của Bắc Việt thì lại khác, chẳng những không bị các nước đồng chủ tịch, tại hội nghị Genève 1954 phản đối, mà ngay cả tổ chức Liên Hiệp Quốc cũng im re. Còn Mỹ thì có gì để nóí, khi Nixon và Kissiger đã quyết định bỏ chạy khỏi VN. Bởi vậy, Hà Nội càng hung hăng tàn bạo, táng tận lương tâm, pháo tập, trực xa, chém giết thẳng tay hàng vạn đồng bào vô tội, bị kẹt trong vùng lửa khói giao tranh, trên khắp các nẻo đường đất nước, mà kinh khiếp và tàn nhẫn nhất, chắc chắn không đâu có thể sánh nổi với đoạn đường chín cây số, từ quận Hải Lăng về Mỹ Chánh, thuộc tỉnh Quảng Trị.

Ngậm máu phun người trước dơ miệng mình, đặt chuyện chụp mũ Mỹ và quân lực VNCH trong chiến tranh, là một sự tuyên truyền rất rẻ tiền của Bắc Việt, chẳng những từ trước năm 1975, mà sau này các văn nô Hà Nội, trong đó có cán gái Dương Thu Hương (tiểu thuyết Vô Ðề), đều là chuyện bình thường và xảy ra hằng ngày như cơm bữa. Bởi vậy giờ đâu còn ai tin những chuyện QLVNCH hãm hiếp, bắn giết tù binh VC, hay những chuyện quân đội Hoa Kỳ bắn giết bừa bãi thường dân Việt tại Mỹ Lai-Quảng Ngãi hay mới đây là chuyện Mỹ gài mìn trên cầu Nogunri ở Bắc Hàn vào tháng 7-1950 , trước khi rút lui, làm thiệt mạng thường dân trên đường chạy loạn hay có thể bị Bắc Cao xua đi đầu dọn bãi mìn, như Bắc Việt từng làm tại An Lộc, Bình Ðịnh, KonTum.. Nhưng dù có chạy tội cách nào chăng nữa, thì đoạn đường xương trắng máu hồng từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, cũng đã trở nên Ðại Lộ Kinh Hoàng, ngàn đời muôn kiếp, trong bia miệng, bia đời và những trang sử của VN cùng nhân loại.

Hãy đọc G.H. Turley nguyên Ðại Tá cố vấn TQLC, trong tác phẩm The Easter Offensive, thuật lại lời Thiếu Tá Mỹ tên Sheridan vốn là một nhân chứng trong đoàn quân di tản khỏi thành phố Quảng Trị "không ngờ tôi đã làm nhân chứng cho một hình ảnh thảm khốc, của cuộc chiến VN. Các pháo thủ bộ đội Bắc Việt, với lý do mà tôi không thể nào giải thích nổi, khi tập trung các loại pháo nặng, thiết giáp để trực xạ vào đoàn người di tản. Khiến cho hàng ngàn người đã gục chết oan khiên, trong đó phần lớn là người già yếu, đàn bà và trẻ nít .. ".Còn ký giả A.R.Isaaca thì viết "vào tháng 6-1972, tôi theo lực lượng Nhảy Dù của VNCH trở lại tái chiếm Quảng Trị. nên được tận mắt nhìn thấy những thảm họa của đồng bào khi chạy lánh nạn trên Ðại Lộ Kinh Hòang kéo dài hàng chục dặm trên đoạn đường bi thiết này, toàn là những xác xe cộ, trong đó nhiều chiếc còn nguyên tử thi của các nạn nhân. Tất cả đã biến dạng sau hai tháng dãi dầu chịu đựng mưa nắng. Dù quân sĩ cố gắng chôn cất cho họ, nhưng vì quá nhiều, nên vẫn còn nhiều xác kẹt trong xe,suốt hai bên đường quốc lộ số 1".

Nhưng diễn tả đúng mức sự tàn ác dã man có một không hai của bộ đội Bắc Việt, nhắm vào đồng bào mình, là nhà văn quân đội Phan Nhật Nam trong tác phẩm Mùa hè đỏ lửa 1972 "sự chết trên 9 cây số đường này, là chín cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá và vạn vật chết trong lòng ánh sáng, thứ ánh sáng có mùi người.. ' ' '.Thê thảm quá, bất lương ghê cho chiến tranh không biên giới và những người Việt Cộng do Hồ Chí Minh ương trồng, không còn một chút tình VN và hơi hám của con người đi bằng hai chân biết nói.

1-Quảng Trị, miền địa đầu giới tuyến:
Tỉnh Quảng Trị nằm ngay địa đầu giới tuyến ngăn đôi đất nước bởi dòng Bến Hải. Ðây là một con sông nhỏ phát nguyên từ dãy Trường Sơn, chảy ra Ðông Hải tại cửa Tùng. Tỉnh bắc giáp quận Vĩnh Linh phía bên kia giới tuyền, tây giáp Lào, phiá nam là tỉnh Thừa Thiên và phía đông là biển. Trước khi xảy ra trận mùa hè năm 1972, tỉnh Quảng Trị có diện tích 3966 km2, dân số 270.984 người. Sau khi kết thúc trận chiến mùa hè vào tháng 9-1972, diện tích Quảng Trị chỉ còn có 164.900 km2, với ba quận Triệu Phong, Mai lĩnh và Hải Lăng nhưng dân số tới 202.338 người. Ðiều này cho thấy, Bắc Việt gây chiến tranh, chỉ chiếm được đất chứ không bao giờ thu phục được nhân tâm, bởi sự tàn ác dã man của bộ đội miền bắc, đi tới tâu thì đồng bào đều phải bỏ của để chạy lấy mạng.

Rừng núi Trường Sơn chiếm 2/3 lãnh thổ tỉnh, chạy dài từ bắc tới nam. Tỉnh có ba con sông chính là Bến Hải, Thạch Hãn và Mỹ Chánh mà cả ba đã vô tình qua sự sắp xếp của lịch sử, trở thành ba con sông biên giới trong các giai đoạn chiến tranh VN . Tỉnh còn có hai quốc lộ 1 và 9, cũng là hai chứng tích lịch sử về việc đồng bào chiến nạn tỉnh Quảng Trị bị thảm sát.

Quảng Trị du nhập vào Mẹ VN từ năm 1069 khi vua Lý Thánh Tôn, thân chinh đánh Chiêm Thành bắt được vua Chế Củ. Ðể chuộc mạng, vua dâng ba châu Ðịa Lý, Ma Linh và Bố Chánh (tức Quảng Bình và một phần Quảng Trị ngày nay). Sau đó vào năm 1306 Huyền Trân Công Chúa gả cho vua Chế Mân, đem về cho Ðại Việt hai châu Ô và Lý. Hai châu này sau đó được vua Trần Nhân Tông đổi thành đất Thuận-Hóa vào năm 1307. Các quận Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lặng ngày nay là đất Hóa thời nhà Trần. Quảng Trị cũng là đất khởi nghiệp của Họ Nguyễn, khi Chúa Nguyễn Hòang được vào trấn thủ Thuận Hóa vào tháng 10 năm Mậu Ngọ (1588). Ông lập dinh tại Ái Tử, quận Triệu Phong. Vì là đất cổ của Ðại Việt, nên Quảng Trị có nhiều di tích lịch sử như đền thờ Trần Nhật Duật, thành Tân Sở nơi vua Hàm Nghi xuất bôn xuống hịch Cần Vương chống Pháp vào năm 1885, Vương Cung Thánh Ðường La Vang (Mai Lĩnh), cổ thành Ðinh Công Tráng.

Thành cổ Ðinh Cộng Tráng được xây dựng từ năm 1823 thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn đắp bằng đất. Năm 1838 thành được xây lại bằng đá gạch, với chu vi 481 trượng 6 thước, cao 1 trượng, dày 3 trượng. Thành có 4 cửa, chung quanh được bao bọc bởi vòng hào, rộng 4 thước, sâu 8 thước. Trước năm 1972, thành cổ là doanh trại của sư đoàn 101 không kỵ Hoa Kỳ. Vào năm 1972, trong cổ thành có Tiểu Khu Quảng Trị và Bộ Tư Lệnh của Sư đoàn 3 bộ binh. Tóm lại đây là một công thự phòng thủ quân sự kiên cố, nhất là trung tâm hành quân của tướng Vũ Văn Giai tư lệnh SD3BB, cũng là tư lệnh chiến trường miền giới tuyến Quảng Trị, trong trận mùa hè năm 1972.

Làm như để đáp ứng cùng với chính phủ Hoa Kỳ trong các cuộc họp mật khi quân Mỹ lần lượt rút khỏi Nam VN, cọng sản Bắc Việt cũng đóng kịch giảm quân và cường độ tấn công vùng giới tuyến so với những năm về trước. Do trên, các cấp lãnh đạo VNCH, từ trung ương tới quân đoàn I, đã tin tưởng là Hà Nội sẽ chẳng bao giờ có ý đồ tấn công qua sông Bến Hải. Ðây chính là lý do đã giao trọng trách phòng thủ miền giới tuyến, cho một sư đoàn bộ binh tân lập, chỉ mới hình thành được vài tháng. Ðó là sư đoàn 3 bộ binh, thành lập cuối năm 1971 có quân số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hữu, chỉ có Trung Ðoàn 2 BB rất thiện chiến, vì là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1 BB lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai trung đoàn 56 và 57 tân lập mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh, quân dịch và các đơn vị DPQ + NQ Vùng 1 chiến thuật.. Sư đoàn cũng chưa có kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng..

Quảng Trị lúc đó, được tăng phái thêm Lữ đoàn 147 TQLC của Trung Tá Nguyễn Năng Bảo đóng tại Mai Lộc về phía tây tỉnh, với trách nhiệm phòng thủ các căn cứ Ba Hô, Sarge, Holcomb và Phượng Hoàng. Riêng SD3BB phòng thủ vỹ tuyến : Trung đoàn 56BB đóng trong căn cứ hỏa lực Carroll lớn nhất tỉnh, do Trung Tá Phạm văn Ðính chỉ huy trách nhiệm phòng thủ các căn cứ Fuller, Khe Gió tiếp cận với Lữ đoàn 147 TQLC.. Trung đoàn 2 BB đóng tại căn cứ A-4 (Cồn Thiên) và Trung đoàn 57BB trách nhiệm căn cứ C-1 (Gio Linh), chạy tới cầu Hiền Lương trên quốc lộ 1, về tới căn cứ Ái Tử.. Phía bên kia quốc lộ tới biển, do lực lượng DPQ+NQ tỉnh Quảng Trị bảo vệ.

2-Trận chiến mùa hè 1972 tại Quảng Trị:
Ðúng 12 giờ trưa ngày 30-3-1972, đại tướng Võ Nguyên Giáp tổng tư lệnh quân đội miền Bắc khai pháo mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, xua 40.000 quân vượt vỹ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tấn công QLVNCH trong tỉnh Quảng Trị. Ðể mở đường qua sông, pháo binh cọng sản, với các loại đại bác nòng dài 130 ly, cũng như hỏa tiễn 122 ly, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá tất cả các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có.

Ngay lúc hai Trung đoàn 2 và 56/SD3BB đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh và hoảng sợ. Sau đó bộ binh, chiến xa Bắc Việt, từ bốn hướng tấn công đồng loạt, mục đích không cho QLVNCH tiếp ứng lẫn nhau, khiến cho các căn cứ hỏa lực lần lượt thất thủ, vì pháo kích và các cuộc tấn công biển người.. Tuy nhiên quân cọng sản cũng vấp phải sự chống cự mãnh liệt khắp nơi, nhất là tại các căn cứ của Lữ đoàn 147 TQLC và Trung đoàn 2BB. trấn giữ. Ðại chiến long trời lở đất khắp nơi tại Quảng Trị, dù được khẩn báo về Sài Gòn và Ðà Nẵng, nhưng lúc đó dường như cả hai cấp chỉ huy quân sự cao nhất, vẫn còn chưa tin là Hà Nội dám vượt sông Bến Hải. Chính điều này, đã làm cho bao nhiêu sinh mạng của đồng bào và người lính, chịu thương vong oan khiên trên các con đường di tản, trước biển giặc.

Mãi tới 6 giờ chiều ngày 30-3-1972, Lữ đoàn 258 TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được tăng cường cho SD3BB tại mặt trận Ðông Hà.. Ngay lúc đó, SD308 cọng sản đang tấn công Tiểu đoàn 4 TQLC tại hai căn cứ Sarge và đỉnh núi Ba Hô. Còn SD304 thì tấn công Tiểu đoàn 8 TQLC tại căn cứ Holcomb. Thời tiết lại quá xấu, nên không quân không thể yểm trợ hỏa lực cho các căn cứ trên, còn hải pháo cũng chỉ yểm trợ tới các căn cứ hỏa lực ở phía đông gần biển mà thôi. Riêng các Pháo đội đại bác 105,155 kể cả 175 ly của VNCH, cũng không thể đương đầu nổi, với hàng trăm khẩu pháo nặng 130 ly của Bắc Việt.

Rồi thì căn cứ Ái Tử, nơi đặt Bộ Chỉ Huy tiền phương của SD3BB cũng bị pháo kích nặng nề. Ðồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Ðông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng ngàn người đã làm mồi cho đạn pháo binh và thiết giáp của bộ đội miền Bắc, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, vì vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập.. Ðạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả, không cần phân biệt xóm làng, chùa nhà thờ, dân lính, thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Ðông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai, có thể ngờ tới.

Ngày 31-3 căn cứ hỏa lực của TD4 TQLC tại núi Ba Hô và Sarge bị tràn ngập, phải di tản vào lúc 9 giờ 40 tối, sau khi hứng chịu nhiều thương vong. Ngày 1-4 các căn cứ Ðông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo kích nặng nề nhưng cọng sản vẫn chưa chiếm được, nhờ hải pháo của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị bắn vào yểm trợ, trong lúc thời tiết càng xấu thêm, nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SD3BB trấn giữ bị tấn chiếm, còn căn cứ Fuller và Khe Gió thì di tản chiến thuật. Căn cứ Holcomb của TD8TQLC , bị tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya đêm 2-4. Tình hình chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc tình cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm , khiến cho các cấp chỉ huy của SD3BB và Tiểu Khu Quảng Trị gần như bó tay, vì không tìm ra kế hoạch nào, để ổn định tình thế.

Rồi BTL tiền phương của SD3BB được lệnh rút về thành phố Quảng Trị. Lữ đoàn 258 TQLC, được tăng cường thêm TD3PB/TQLC và TD7TQLC, lãnh thêm nhiệm vụ phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong lúc đó căn cứ hỏa lực Carroll của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn nhưng không có quân tiếp viện. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam Ðông Hà, để lại cho giặc nhiều khẩu đại bác 155 ly.

6 giờ 30 sáng ngày 2-4-1972, bỗng có tin TQLC Hoa Kỳ đã đổ bộ vào bờ biển Quảng Trị, để tiếp viện cho QLVNCH. Tin trên làm cho quân dân trong tỉnh vô cùng phấn khởi nhưng Hà Nội biết trước là tin vịt, nên càng tấn công mạnh khắp nơi. Cùng ngày TD3TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được lệnh giữ cầu Ðông Hà. Trận chiến trở nên ác liệt, vì bộ đội và chiến xa cọng sản, chuẩn bị vượt cầu Ðông Hà. Ngày 3-4, Trung Ðoàn 2BB bị bộ đội Bắc Việt truy đuổi khi rút về Cam Lộ, nên không kịp dùng mìn phá cầu. Tại căn cứ Carroll do Trung Tá Phạm Văn Ðính chỉ huy, gồm Trung đoàn 56BB, các pháo đội diện địa, TD1 Pháo binh TQLC, tổng cộng quân số trên 2000 người, kéo cờ trắng đầu hàng quân Bắc Việt. Ðây là trường hợp duy nhất trong cuộc chiến Ðông Dương lần 2. Tình hình đã quá nguy ngập, nên cầu Ðông Hà được lệnh giật xập, chận được bước tiến của giặc trong một thời gian ngắn. Lữ đoàn 369 TQLC lại được tăng cường thêm cho Quảng Trị.

Ngày 4-4, Lữ đoàn 147 TQLC cũng phải bỏ luôn căn cứ Mai Lộc, vì không chịu nổi pháo kích và chiến thuật tấn công biển người. Vì quân số bị hao hụt quá nhiều, nên lữ đoàn này được lệnh về Huế bổ sung và tái trang bị.. Riêng TD7 TQLC vì quân số còn nguyên vẹn, nên được lệnh giữ còn đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh. Như vậy về phía tây, chỉ còn có TD1 TQLC, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn bảo vệ thành phố mà thôi.

Do tình hình quá khẩn cấp và nguy ngập, nên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1 tăng cường thêm cho Quảng Trị nhiều đơn vị. Như vậy tính đến ngày 5-4, chiến trường này có 2 Trung đoàn bộ binh của SD3 là 2 và 57, hai Lữ đoàn 258 và 369 TQLC, bốn Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân, hai Thiết đoàn 17 (M113) và 20 (M48), 24 Tiểu đoàn Ðịa Phương Quân + NQ và 8 Tiểu đoàn Pháo binh. Nhưng vì lệnh chỉ huy không thống nhất, giữa Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh QÐ1) từ Ðà Nẵng và Chuẩn tướng Vũ Văn Giai (Tư lệnh SD3BB) tại chiến trường, khiến cho tình thế đã không được ổn định, mà càng gây thêm rắc rối trên khắp các mặt trận. Cuối cùng Quảng Trị đã thất thủ, chỉ sau mấy ngày bị pháo kích đã ban lệnh di tản.

Ngày 8-4, sau mấy ngày bị tổn thất vì mưa pháo, TD 3 TQLC phải hoán chuyển về Ái Tử và BDQ ra thay thế giữ bờ nam Ðông Hà. Tại căn cứ Phượng Hoàng, cọng sản đã thảm bại khi trực chiến với TD6 TQLC, thiệt hại hơn một trung đoàn bộ đội, 21 chiến xa T54 bị cháy, phần lớn do Không quân Việt-Mỹ oanh kích, bãi mìn cùng pháo binh. Hai chiếc T54 khác bị bắt sống đem về thành phố Quảng Trị. Nhưng sau đó, TD6 TQLCH cũng được lệnh bỏ căn cứ Phượng Hoàng vào ngày 12-4. Một cuộc hành quân đại qui mô, do Trung tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ Huy, mang tên Quang Trung 729, khai diễn ngày 14-4 với mục đích tái chiếm các căn cứ ở phía tây đã mất. Nhưng cùng lúc, cọng sản Bắc Việt đã mở ba cuộc tấn công lớn vào Ái Tử, Ðông Hà và căn cứ Anne ở phía nam, đối diện với quận Hải Lăng. Mục đích là muốn cắt đứt con đường huyết mạch của QLVNCH, từ Quảng Trị về Huế. Ðể chống lại âm mưu trên, tướng Giai chia các lực lượng đang tham chiến tại đây thành 5 chiến đoàn đặc nhiệm : Trung đoàn 57 BB giữ bờ nam sông Ðông Hà. Thiết đoàn 1 + 20 + 2 LD 4,5 BDQ do Ðại tá chỉ huy trưởng LD1 TG chỉ huy, tái chiếm căn cứ Carroll. Lữ đoàn 258 TQLC từ Ái Tử, tái chiếm căn cứ Mai lộc. Trung đoàn 2BB giữ mặt trận từ Ba Lòng tới bờ tây sông Thạch Hãn, ngăn không cho quân Bắc Việt tấn công thành phố. Cuối cùng là Liên Ðoàn I BDQ, gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77, giữ con đường huyết mạch từ Quảng Trị tới quận Hải Lăng. Chiến cuộc thật sự bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch và bị pháo kích nặng nề. Bởi vậy thay vì quân ta tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy khổn nhất là cánh quân của LD5 BDQ và Thiết đoàn 20 chiến xa. Tuy nhiến tính đến ngày 18-4, các đơn vị của QLVNCH vẫn còn giữ vững đựợc các vị trí chịu trách nhiệm.

Ngày 22-4, Lữ đoàn 147 TQLC sau khi được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị, thay thế LD 258 TQLC phòng thủ căn cứ Aí Tử. Trong đêm CS pháo kích làm kho tiếp liệu của SD3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận từ Ðà Nẵng tới. Ngày 23-4, bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với QLVNCH, Không quân và Hải pháo của Việt-Mỹ, Cọng sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người của cả hai phía, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn. Trong lúc đó gần tháng qua, người lính Miền Nam các cấp, từ TQLC,BDQ, Thiết Giáp, Bộ Binh, DPQ + NQ.. ngày đêm thiếu ăn mất ngủ, chỉ đứng dưới giao thông hào, chịu pháo, chịu đạn giữa trời mưa gió. Trong lúc đó khắp các nẻo đường Quảng Trị, càng lúc càng chết chóc thê thảm , bởi cảnh pháo kích bừa bãi của cọng sản. Quảng Trị đã thật sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai, sau địa ngục An Lộc.

Ngày 27-4, tất cả nòng súng đại pháo của quân Bắc Việt, đều tập trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lỉnh, Hải Lăng. Trong lúc đoàn người tị nạn thay vì tập trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tìm sinh lộ, gây cảnh hỗn loạn trên quốc lộ 1. Các cánh quân cũng bắt đầu náo động vì vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do đó nhiều đơn vị đã tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SD3BB cũng là đầu não chiến trường, mất liên lạc với một số lớn đơn vị trực thuộc. Ðúng lúc, kho đạn lớn trong căn cứ Ái Tử lại phát nổ. Ngày 28-4, trước áp lực của địch, cánh quân của LD5BDQ và TD20 rút về phía bên kia cầu Vĩnh Phước nhưng bị pháo 130 ly của Cọng sản bắn sập cầu, khiến nhiều xe M48 và đại bác 105,155 ly bỏ lại bên bờ Bắc. Cũng từ phút đó, các cánh quân còn lại của LD4,5 BDQ, LD 1 Thiết kỵ và Trung Ðoàn 57 BB, phải lui về phòng thủ căn cứ Ái Tử và thành phố Quảng Trị. Ngày 29-4, lúc 2 giờ sáng, cọng sản tấn công Trung đoàn 2BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ ở phía tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ biển, cọng sản với bộ binh có chiến xa lội nước PT76, tấn công các Tiểu đoàn DPQ + NQ của Tiểu Khu Quảng Trị. Tình trạng hỗn loạn khắp nơi, khiến cho Tướng Giai phải quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ nam sông Thạch Hãn phòng thủ. Lúc đó Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ đã rã ngũ, để chạy theo gia đình đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đã bị cọng sản đóng chốt nhiều đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, vì Tiểu đoàn 7 TQLC bị chuyển ra phòng thủ căn cứ Ái Tử. Do đó đoạn đường huyết mạch, chỉ có chín cây số, bị bỏ ngỏ để quân cọng sản đóng chốt, đã trở thành con đường xương trắng máu hồng., mà bia miệng và sử liệu gọi là Ðại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm 1972.

3- Rút bỏ Quảng Trị:
Ngày 30-4, tư lệnh chiến trường kiêm tư lệnh SD3 BB là chuẩn tướng Vũ văn Giai, triệu tập phiên họp đặc biệt và quan trọng, để bàn kế hoạch giữ thành phố Quảng Trị và bỏ căn cứ hỏa lực Ái Tử. Do đó trong cuộc lui quân, LD 147TQLC và TD2. Pháo binh/TQLC , với quân số trên 2000 người, khi quân qua cầu Thạch Hãn thì cầu bị xập, khiến cho một số lớn chiến xa, xe cộ , đại bác và quân trang dụng.. phải bị bỏ lại phía bên kia cầu cho cọng sản. Lúc đó Lữ đoàn 369 TQLC được tăng cường với nhiệm vụ, giữ mặt tây từ sông Ô Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh, ranh giới hai tinh Thừa Thiên-Quảng Trị. Ðồng thời phải giải tỏa quốc lộ số 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, đang bị quân cọng sản chiếm và đóng chốt, nhất là cầu sông Nhung, nằm giữa quốc lộ 1. Tình trạng này, đã làm gián đoạn giao thông, đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Ðây là mục tiêu chính, để quân Bắc Việt tha hồ tác xạ dữ dội và tàn nhẫn, bằng đủ loại súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng chết thảm thương trong những xác xe cháy nằm la liệt khắp đường. Chỉ những kẻ biết bơi lội, mới sống sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh.

Ngày 1-5-1972, tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật. Tin trên chẳng những làm mười bảy triệu dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà còn khiến cho toàn thể thế giới sửng sốt. Tất cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía, trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon Tum và nhất là địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá. Theo Lê Huy Anh Vũ, Trung tá thuộc phòng điện ảnh quân đội, một nhân chứng trong ba ngày cuối cùng tại Bộ tư lệnh SD3BB, đã viết tướng Giai có hứa với thuộc hạ, là sẽ cùng với họ đi bộ. Nhưng cuối cùng tướng tư lệnh đã thất hứa, đã cùng với các cố vấn Mỹ và một ít sĩ quan tham mưu thân cận, lên trực thăng bay về Huế lúc 16 giờ 40 cùng ngày. Cổ thành Ðinh Công Tráng-Quảng Trị, một căn cứ hỏa lực và phòng thủ vững chắc gấp 100 lần thị xã An Lộc, bị bỏ ngỏ và lọt vào tay cọng sản Bắc Việt, tối ngày 2-5-1972.

Giữa lúc đó, cánh quân còn lại tại Quảng Trị, gồm Lữ đoàn 147 TQLC, Liên đoàn 1 Biệt động quân và các đơn vị của SD3BB, vừa phải bảo vệ dân chúng di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng độ và lãnh đạn pháo kích nặng nề của giặc nhưng cuối cùng cũng đã thoát được về Huế, sau khi lãnh chịu nhiều thương vong thê thảm. Như vậy tính đến ngày 2-5-1972, tỉnh Quảng Trị coi như hoàn toàn bị Bắc Việt cưỡng chiếm. Nhưng giặc từ bộ đội, chiến xa, pháo binh kể cả đặc công, đã hoàn toàn bị chặn đứng bên bờ bắc sông Mỹ Chanh, bởi Lữ Ðoàn 368 Thủy quân lục chiến, do Ðại tá Chung chỉ huy. Nhờ Lữ đoàn này ngăn được bước tiến của quân Bắc Việt, nên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, với vị Tư lệnh mới là Trung tứơng Ngô Quang Trưởng (thay tướng Hoàng Xuân Lãm), mới có đủ thì giờ chỉnh đốn lại các đơn vị và mở cuộc tấn công tái chiếm Quảng Trị. Sau đó thành cổ Đinh Công Tráng, coi như cũng được hoàn toàn giải phóng vào đêm 14-9-1972, khi người lính của Ðại Ðội 3, Tiểu đoàn3 TQLC, treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ của Quốc Dân VNCH trên kỳ đài. Những tên bộ đội cuối cùng của Trung đoàn 48 cọng sản, lội sông trốn chạy về bờ Bắc Thạch Hãn, sau 82 ngày bám trụ.

4- Nguyên nhân và hậu quả cuộc chiến 1972:
Ðầu năm 1972, Hoa Kỳ đang bước vào chu kỳ mới với việc tổng thống Nixon ra tranh cử nhiệm kỳ hai, trong lúc hòa đàm tại Ba Lê giữa Mỹ và Bắc Việt lại bế tắc. Cùng lúc phong trào phản chiến , do trí thức, báo chí, truyền thanh truyền hình Mỹ chủ xướng, đang dân cao, còn quốc hội Mỹ, dưới sự chi phối của đảng dân chủ, lần lượt cắt bỏ quyền của tổng thống Nixon, đối với sự tham chiến tại VN. Cuối cùng Mỹ rút hết quân về nước, QLVNCH bị cắt giảm hỏa lực và quân trang dụng. Ðó là những lý do khiến Hà Nội đốt giai đoạn, vượt tuyến tấn công ào ạt vào khắp lãnh thổ VNCH vào mùa hè năm 1972.

Nhưng dù đã được Nga-Tàu quân viện và bán chịu cho một số lượng quân dụng khổng lồ, tối tân như chiến xa T54,55, PT76, đại bác 130,155 ly, súng phòng không 23,57 và hoả tiễn tầm nhiệt SA 7 (nợ chiến phí này ngày nay VC đem đất đảo biển VN trả nợ cho Tàu đỏ). Ðồng thời xử dụng hết số 13 sư đoàn tác chiến tại miền Bắc, quân số trên 136.400 người, bất thần mở cuộc tấn công khắp lãnh thổ VNCH.. Tuy nhiên Bắc Việt chỉ thắng lợi lúc ban đầu , rồi thì sau đó đại bại hầu hết trên khắp các mặt trận, cho dù đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã xử dụng binh pháp của Liên Xô, tận dụng triệt để hỏa lực của đại pháo, xe tăng và biển người, với mục đích đè bẹp nhanh chóng QLVNCH.

Ðối với Hoa Kỳ, khi nhận được tin Bắc Việt vượt vỹ tuyến 17, qua sông Bến Hải và biên giới Lào-Miên tấn công miền Nam. Tổng thống Nixon họp Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia, quyết định cho phép Hải Không Quân Hoa Kỳ, trở lại yểm trợ hỏa lực cho QLVNCH. Ngoài ra bộ binh không được tham dự, đồng thời cuộc rút quân Mỹ về nước vẫn tiếp tục. Do đó Mỹ bắt đầu gia tăng các lực lượng yểm trợ, chiến đấu tại VN. Hai hàng không Constellation và Kitty Hawk, trở lại tăng cường cho hai Hàng không mẫu hạm Corral Sea và Hancook, cùng một số lớn tàu tuần duyên, khu trục hạm, có mặt quanh Cửa Việt trên 20 chiếc. Về Không Quân, từ ngày 15-4-1972, phi đoàn 35 chiến thuật, cùng với 3 phi đoàn F4 của TQLC Mỹ, đều trở lại VN. Ðồng thới tất cả B52 tại hai căn cứ Anderson Field (Guam) và Utapao (Thái Lan), gồm 38 chiếc, cũng được lệnh yểm trợ cho chiến trường VN. Ngoài ra, tổng thống Nixon còn ra lệnh vào ngày 2-5-1972, mở chiến dịch Linebacker 1, tái oanh tạc miền Bắc, nhất là tại Hà Nội , Hải Phòng. Ðồng thời thả mìn và thủy lôi, phong tỏa các cửa sông, cửa biển của Bắc Việt, ngăn chận các tàu thuyền của Nga,Tàu và các nước Ðông Âu, tiếp tế vũ khí đạn dược, cho cọng sản Hà Nội. Sau đó mở thêm chiến dịch Linebacker II, kéo dài trong 11 ngày đêm, từ 18/12 đến 29-121972, tàn phá miền Bắc rất nặng nề, khiến cho Hà Nôi phải trở lại bàn hội nghị, tại Ba Lê với Mỹ.

Trong trận chiến này, VNCH có hai sư đoàn bộ binh bị tan hàng, đó là SD22 BB ở Tân Cảnh (Kon Tum) và SD3BB tại Quảng Trị. Nhưng sự tan hàng và cung cách hành xử của hai tư lệnh sư đoàn trên cũng khác biệt. Tại Kontum lúc 2 giờ sáng ngày 24-4-1972, cộng quân tràn ngập căn cứ Tân Cảnh do SD22BB trấn giữ. Ðại Tá Lê Ðức Ðạt tư lệnh, đã từ chối lời mời của Ðại tá cố vấn Mỹ là Kaplan, lên trực thăng cấp cứu của cố vân Mỹ tại QDII là Paul Vann. Ông cũng không cầu cứu với Tướng Ngô Du Tư lệnh Quân Ðoàn, chịu ở lại để cùng chết với binh sĩ của SD22BB. Riêng SD3BB, trừ Trung đoàn 2BB, còn lại hai Trung đoàn 56 và 57, chưa đụng trận mà chỉ bị pháo kích, đã náo loạn và bỏ chạy. Còn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh SD, hứa ở lại, để cùng di tản bộ với đơn vị. Nhưng rồi lại thất hứa, leo lên trực thăng để di tản với cố vấn Mỹ lúc 16 giờ 40 phút ngày 1-5-1972, bỏ lại binh sĩ của Bộ Tư Lệnh và Ðại Ðội Tổng Hành Dinh của SD3BB, như rắn mất đầu, phải chạy theo Thiết Ðoàn 18 về Huế.

Ngoài ra cũng còn rất nhiều chuyện lạ như lúc quân Bắc Việt qua sông Bến Hải, tràn ngập và tấn công QLVNCH, thì người Mỹ lại dở trò chủ nhân, làm cho VNCH đang lúc nguy khốn lại càng tận tuyệt. Theo Turley trong The Easter Offensive, thì việc Bộ tư lệnh KQ Mỹ, cấm tác xạ vào vùng phi quân sự tại miền Bắc tỉnh Quảng Trị, trong phạm vi đường kính 27 km, khi tung tin chiếc phi cơ EB66 của một Ðại Tá Hoa Kỳ, bị hỏa tiễn Sam của cộng quân bắn hạ tại vùng Cam Lộ. Lệnh này được thi hành suốt 12 ngày đầu của trận chiến vùng hỏa tuyến. tạo cơ hội cho Hà Nội mở một hành lang an toàn, khi di chuyển qua vùng giới tuyến mà không bị máy bay hay pháo binh của ta oanh tạc và tác xạ. Tại căn cứ hỏa lực Ái Tử, trong lúc QLVNCH đang bị giặc vây khổn và pháo kích tơi bời, lại nhận được thông báo từ các cố vấn, rằng B52 sẽ đến thả bom san bằng, khiến cho BTL.SD3BB phải cấp tốc ban hành lệnh di tản chiến thuật. Ðó là tất cả những chuyện khôi hài cười ra nước mắt, khiến cho ai đọc tới, cũng phải chua xót và tủi hổ cho thân phận nhược tiểu VN.

Sau hết là cái tình yêu thương giữa đồng bào và người lính trận trong cơn hoạn nạn, cũng được thể hiện một cách trọn vẹn, qua cuộc chiến 1972. Chính tại những miền đạn bom lửa máu này, những chỗ không bao giớ có bóng dáng các vị trí thức, giáo sư, nhà báo, ký giả hay nhà văn nhà thơ gì gì đó, mà chỉ có người dân cùng người lính chia nhau niềm đau khổ, đói rách và khủng hoảng tinh thần. Người quốc gia, từ công chức, cảnh sát, cán bộ cho tới các quân binh chủng của QLVNCH, ai nấy đều chấp nhận cái chết, chịu ở lại, đổi mạng mình, để đem lại sự bình an hạnh phúc cho hậu phương. Thắm thiết biết là bao, đó là sự đùm bọc đồng bào như chính bản thân mình. Những khẩu phần lương khô ít ỏi, những ngụm nước uống thiếu vệ sinh cùng với những sớt chia sự nguy hiểm quanh quanh , đều là những viên thuốc thần dược, xoa dịu và an ủi niềm đau bất hạnh của đồng bào trong lúc nguy khốn. Chẳng những thế, đối với cán binh bộ đội giặc, bị bắt làm tù binh, cũng được người lính đối xử nhân đạo với tình đồng bào, mà không hề phân biệt Nam-Bắc, dù thực chất Hà Nội luôn coi đồng bào Miền Nam là kẻ tử thù.

Trần Ðức, một người lính nhẩy dù trên đường tiến quân tái chiếm Quảng Trị, khi ngang qua Ðại Lộ Kinh Hoàng, đã không cầm nổi nước mắt, giữa hàng trăm, hàng ngàn xác chết bên cạnh những chiếc xe đạp, xe gắn máy, nằm ngổn ngang, chỏng gọng, những gồng gánh, bao bọc bị đạn pháo đổ ra tung tóe. Những chiếc xe jeep, xe thùng hồng thập tự, vết đạn xuyên lỗ chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe cho thấy những xác người nằm trên băng ca, những cọng băng phất phơ chỉ còn bám vào bộ xương khô bởi mấy rẽ xương sườn. Có bộ xương em bé nằm trên bộ xương người mẹ dưới một bụi gai. Có xác khô đét như người tiền sử nằm giữa đám cỏ may bên lề đại lộ. Có xác nằm sấp, có xác nằm co như còn mong bờ đất dưới ruộng che chở cho mình thoát tầm đạn giặc. Ðó đây, giữa đám xác người, rải rác những đuôi đạn súng cối 61 ly và B40 .Thì ra cộng quân đã đứng rất gần để tác xạ vào đám dân Quảng Trị chạy loạn. Họ đã bắn như bắn bia. Bắn cho chết đến người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể người già hay trẻ thơ. Thật là rùng rợn. Hình ảnh này trong trận tấn công "Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972" ghi sâu mãi mãi trong ký ức của những người đã chứng kiến thảm cảnh người dân Quảng Trị phải gánh chịu và tội ác chiến tranh của cọng sản Bắc Việt.

Ðoạn đường mang tên "Đại Lộ Kinh Hoàng" nay không còn xác chết, không còn dấu vết của tội ác. Họ đã được thân nhân mang về mai táng ngay sau đó. Sau tháng 5-1975, đất nước đắm chìm trong tù gông nô lệ của thực dân VC, vì vậy hằng năm đến ngày giỗ tập thể, hàng ngàn gia đình ở vùng quê hương Quảng Trị chỉ âm thầm thắp nén hương thơm tưởng nhớ. Không ai dám hé răng nửa lời. Có những người không còn thân nhân thì mồ hoang, mả lạnh, không chút khói hương. Nghĩ đến xót xa làm sao! Họ đã chết tức tưởi mà đến nay họ còn u uất nơi bờ cao bụi rậm, không sao siêu thoát được. Hẳn họ không sao có thể ngờ được là nhiều năm sau, người đời vẫn còn nhớ thương họ. Vào ngày 28-4 đến ngày 2-5-2002 vừa qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Trị đã tổ chức tại chùa Long An thuộc quận Triệu Phong đàn tràng cầu siêu cho những nạn nhân bị Cộng Sản sát hại trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 tại Quảng Trị, mặc dù chính quyền địa phương đã cho cán bộ đi từng nhà để ngăn cản, đe dọa, chặn đường, cấm cho thuê xe Thượng tọa Thích Hải Tạng, trụ trì chùa Long An cho biết, nhân dịp này, đồng bào đã mang hàng trăm linh vị các nạn nhân của cộng sản trong Mùa Hè Đỏ Lửa đến chùa để xin được giải oan siêu thoát.

Nghiệt ngã của Dân Tộc Việt là thế đó. Vậy mà còn nhiều tên việt gian tại hải ngoại cứ dửng dưng ca tụng Hồ và đòi hòa hợp hoà giải với vòng ôm lớn cùng VC.

Viết tại Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 3-2010
MƯỜNG GIANG

Mùa hè đỏ lửa - Phan Nhật Nam


Thông tin sách
Tác giảPhan Nhật Nam
Quốc gia Việt Nam Cộng hòa
Ngôn ngữTiếng Việt
Tiếng Pháp
Tiếng Anh
Thể loạiHồi ký
Nhà xuất bảnSáng Tạo xuất bản (1972)
Hiện Đại tái bản (1973)
Ngày phát hành1973
Kiểu sáchIn (bìa mềm)
Số trang236
Bản tiếng Việt
Người dịchLiễu Trương

Mùa hè đỏ lửa là nhan đề thiên tùy bút do tác giả Phan Nhật Nam thực hiện tháng 03 năm 1973 tại Quảng Trị[1].

Lịch sử

Theo tự thuật, vào thời điểm khởi thảo - tháng 04 năm 1972, tác giả theo Lữ đoàn II Nhảy Dù đổ bộ xuống đồi Charlie (nơi được lính đặt biệt danh "nồi cơm điện National" vì mức độ quyết liệt) nhằm cắt đứt tuyến tiếp tế qua quốc lộ 14 của các sư đoàn cộng quân. Sau đó, nhân vật xưng Tôi lại theo nhiệm vụ tiếp ứng Tiểu đoàn I Thủy Quân Lục Chiến giải phóng quốc lộ 1 và toàn tỉnh Quảng Trị tới hết tháng 03 năm 1973.

Tác phẩm được gửi in tại nhà Sáng Tạo ở đô thành Sài Gòn trong năm 1973 và liên tục được các san hành xã khác nhau tái bản, trở thành ấn phẩm chiến tranh ăn khách và gây ấn tượng nhất thập niên 1970 ở cả hai miền Việt Nam. Tới thời điểm 30 tháng 04 năm 1975, các nhà in này thậm chí chưa thanh toán hết nhuận bút cho tác giả. Sau sự kiện Tháng Tư Đen, Mùa hè đỏ lửa cùng mọi tác phẩm ký danh Phan Nhật Nam bị đem ra đường phố đốt trong "chiến dịch bài trừ văn hóa phẩm đồi trụy" năm 1978. Tuy nhiên, những ấn bản khác vẫn tồn tại ở nhiều thư viện tư thục nên nội dung không hề mai một theo thời đại.

thập niên 1980, tác phẩm lại được các nhà phát hành hải ngoại cho tái xuất cả nguyên bản và dịch bản, đồng thời nội dung được đưa vào tàng trữ tại thư khố Đại học Michigan. Đến năm 1998, nhân kỷ niệm Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tác giả Phan Nhật Nam bổ sung trong bản in mới các bài tựa để củng cố chiều sâu tác phẩm và tới nay được công nhận là bản lưu hành chính thức.

Nội dung

Bản ấn loát tác phẩm Mùa hè đỏ lửa được chia thành 4 chương, xen 2 bài phi lộ.

Tác phẩm tiếp nối phong cách Dấu binh lửa nhưng chủ đích khắc họa rõ hơn những mặt người thời chiến. Hiện thực chiến tranh tuy tàn khốc nhưng không bi lụy, thậm chí có những đoạn kể truyện rất vui đời lính. Trong ấn bản cuối cùng năm 1998, tác giả đã hiệu chính tác phẩm theo thi pháp ca khúc Người ở lại Charlie của nhạc sĩ Trần Thiện Thanhthi phẩm Chiều trên phá Tam Giang của thi sĩ Tô Thùy Yên, mà ở thời kỳ Mùa hè đỏ lửa mới phát hành, những bài này chưa công bố.

  • Lời Mở Đầu
  • Chương 1: Phác họa cứ điểm Tân Cảnh.
  1. Charlie - tên nghe lạ quá
  2. Đến đây - người gặp người
  3. Trận đánh trên cao điểm
  4. Ngày cuối của một người
  1. Đốt Charlie
  2. Người ở lại với Charlie
  3. Anh Năm kính yêu
  4. Tạm kết - Charlie mất
  • Chương 3: Thư chị Nguyễn Thị Hàng (giáo viên ở Nghệ An) gửi người yêu Lê Văn Hưu - chiến sĩ trung đoàn 124 Bắc Việt, hi sinh ngay trận đầu sau 6 tháng vượt Trường Sơn vào Nam.
  1. An Lộc - miền Đông không bình yên
  2. Quê hương của loài nai
  3. Địa ngục trước mặt
  4. Mãn thiên hoa vũ
  5. Chân dung người giải phóng
  6. Chiến trường lộ mặt
  7. Thư của người tình hư vô
  • Chương 4: Đất và người Trị Thiên giữa hai làn đạn.
  1. Trị Thiên - đất vinh danh cho người
  2. Về quê hương điêu tàn
  3. Huế còn thở
  4. Bay trong hoàng hôn
  5. Dậy đường tử khí
  6. Người Lính Việt Nam - một nhiệm mầu
  7. Đêm trên bờ Thạch Hãn

Ảnh hưởng

Trước khi Mùa hè đỏ lửa phát hành, tác giả Phan Nhật Nam đã được đánh giá là một trong những cây bút thượng hạng trong giới văn chương về đề tài chiến tranh. Nhưng ngay khi công bố, tác phẩm đã gieo những kinh ngạc trong báo giới về doanh thu và phải tái bản 30 lần để đáp ứng nhu cầu độc giả. Thành công vang dội này đem tên tuổi ông ra quốc tế, đồng thời, nhan đề tác phẩm về sau được coi là định danh phi chính thức của chuỗi chiến dịch Xuân Hạ 1972 trong các văn bản khoa học. Còn theo nghiên cứu gia Vương Trí Nhàn, từ những năm trước và sau sự kiện 30 tháng 04 năm 1975, tác phẩm Mùa hè đỏ lửa cùng một số ấn phẩm khác của tác gia Phan Nhật Nam đã được các nhà văn khoác áo lính ngoài Bắc tìm đọc khi có cơ hội vào thành thị miền Nam. Riêng với tác phẩm Mùa hè đỏ lửa, Phan Nhật Nam đã trở thành một vấn đề văn học thời chiến, gây nên những tranh luận sôi nổi trong giới văn bút Hà Nội từ thập niên 1970 mãi tới những năm 2020[2].

Ngày 04 tháng 03 năm 1973, tác giả Phan Nhật Nam tới phi trường Lộc Ninh chứng kiến lễ trao trả tù binh với tư cách ký giả quân sự[3]. Theo lời khuyên của hai bạn văn Nguyễn Văn ThànhĐỗ Ngọc Yến, ông đem theo cuốn Mùa hè đỏ lửa. Tại đây, trước mặt 30 phóng viên quốc tế, ông gặp ký giả Bùi Tín (tư cách phóng viên báo Nhân Dân) và cho ông Bùi Tín coi bức ảnh in trong Mùa hè đỏ lửa để chứng minh vụ thảm sát Huế. Sau cuộc gặp này, ông bị phạt 60 ngày trọng cấm vì tội "phát biểu bất lợi cho quốc gia và phổ biến tác phẩm bất hợp pháp". Sự kiện này về sau cũng được ký giả Bùi Tín xác nhận.

Tác phẩm được trao Giải thưởng phóng sự chiến trường năm 1973.

Tham khảo

Liên kết

Tài liệu

Tư liệu

 

TƯỢNG ĐÀI TÁI CHIỂM CỔ THÀNH QUẢNG TRỊ PRESS RELEASE

9141 BOLSA AVE., SUITE 303, 

WESTMINSTER, CALIFORNIA 92683

PHONE: (714) 512-5630 * INFO@QUANGTRIMONUMENT.COM

CONTACT: Lan Quoc Nguyen, (714) 512-5630

DATE: 30 tháng 6 năm 2021

RE: Vận Động TP Westminster và 3 Nghị Viên về dự án Tượng Đài Quảng Trị

 Vận Động 3 Nghị Viên TP Westminster Hủy Bỏ Quyết Đình Hoãn Dự Án Xây Dựng Tượng Đài Cổ Thành Quảng Trị

(Westminster, CA) – UBXDTD Tái Chiếm Cổ Thành Quảng Trị xin kêu gọi đồng hương từ khắp mọi nơi vận động với Thành Phố Westminster và 3 nghị viên TP Westminster Kimberly Hồ, Tài Đỗ và Carlos Manzo để hủy bỏ quyết định đình hoãn vô hạn định dự án xây dựng Tượng Đài mà họ đã thông qua trong buổi họp khẩn cấp vào ngày 25 tháng 6 vừa qua. Quyết định này đi ngược lại ước muốn của rất đông đảo mọi thành phần trong cộng đồng tỵ nạn Việt Nam tại khắp nơi như đã được chứng minh trên trang nhà của Ủy Ban ở địa chỉ www.cothanhquangtri.com

Chỉ cần một trong ba thành viên này đổi ý là dự án có thể tiến hành được chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ như nhóm 3 nghị viên này đã làm mới đây.

Quí vị có thể liên lạc trực tiếp đến Thành Phố Westminster cũng như 3 vị nghị viên Kimberly Hồ, Tài Đỗ và Carlos Manzo ở những địa chỉ sau đây

 Hội Đồng Thành Phố Westminster

(714) 548-3178ldoan@westminster-ca.gov

Có thể nói tiếng Việt

 NV Kimberly Hồ

kho@westminter-ca.gov
NV Tài Đỗ

tdo@westminster-ca.gov

 N Carlos Manzo

cmanzo@westminster-ca.gov

Mọi tin tức cập nhật hay chi tiết về trình bày, xin vào thăm trang nhà của UBXDTD ở địa chỉ www.cothanhquangtri.com hay gọi điện thoại về (714) 576-4330

*** "Mùa Hè Đỏ Lửa" 1972 -Trận Chiến An Lộc - Sự thảm bại nhục nhã của cộng sản VN!

“An-Lộc địa sử ghi chiến-tích
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân”
 
Nhân ngày kỷ niệm Song Thất sắp đến, 07-07-1972, khiến ai nấy đều nhớ lại một trong những chiến thắng anh dũng của Quân Lực VNCH, đã xẩy ra cách đây vừa đúng 48 năm trên một vùng đất nước quê hương thuộc miền Đông Bắc Nam Phần VN.
Ngày đó, vào đúng cái thời điểm mang tính cách lịch sử này, mặc dù lửa đạn chiến tranh của “quân xâm lược cộng sản bắc việt” vẫn còn chưa ngưng hẳn, nhưng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn chính phủ VNCH đã bất thần đáp trực thăng vào thị trấn An Lộc.
Sự có mặt của vị Nguyên Thủ Quốc Gia, tại một mặt trận mới vừa tạm bớt tiếng súng, không những được coi là quan trọng mà lại còn rất có ý nghĩa; nhằm ủy lạo đồng bào chiến nạn, đồng thời Tổng Thống bầy tỏ lòng tri ân và khích lệ tới chiến sĩ các binh chủng thuộc lực lượng bảo vệ thị trấn An Lộc.
Hơn thế nữa, sự hiện diện của vị Tư-Lệnh Tối Cao còn có tác động mạnh đến tinh thần Chiến Đấu Tự Vệ của toàn thể quân nhân các cấp thuộc Quân Lực VNCH; những chiến sĩ quả cảm, lúc đó đang hiện diện, chiến đấu anh dũng trên khắp các mặt trận đã và đang xẩy ra khốc liệt tại phía nam bờ sông Bến Hải, thuộc phần đất của Việt-Nam Cộng Hòa.
Kế hoạch xâm luợc ăn cướp miền Nam của bọn cộng phỉ bắc việt được tuyên truyền bằng vô số các ngôn từ đao to búa lớn một cách lố bịch, loại “lộng ngôn” như: “cuộc tổng tiến công” (tràn qua vĩ tuyến 17), hay “chiến dịch năm 1972”, tức “chiến dịch hồ chí minh“ (‘chữ’ của vc); được coi là một trong những “kế hoạch vi phạm trắng trợn nhất”; phản bội lại các điều khoản ghi nhận trong một hiệp định thư; đã đươc chính hồ chí minh và tập đoàn việt-minh cộng sản ký kết với Pháp nhằm “chia cắt đất nước” tại Genève vào năm 1954.
Đầu mùa mưa năm 1972, lợi dụng số vũ khí được lén lút vận chuyển vào Nam, bọn cộng sản bắc việt tận dụng các giàn đại pháo 130 ly, pháo kích (tiền pháo, hậu xung) cùng lúc huy động cả hàng chục sư đoàn bộ đội cùng vũ khí đạn dược băng qua sông Bến Hải và vượt Trường Sơn. Chúng khai triển kế hoạch, mở các cuộc tấn công đại qui mô vào Khu Phi Quân Sự, phía nam vĩ tuyến 17. Bọn bắc quân thực hiện chủ trương của Hồ chí Minh (ngay từ lúc còn sống) là “Tận dụng vũ lực, quyết tâm xâm lược Miền Nam VNCH, bằng mọi giá”.
Vì thế sau hiệp định Genève, họ Hồ tiếp tục kéo dài chiến tranh, gây thêm tang tóc trên sinh mạng đồng bào của cả hai miền Nam và Bắc VN. Kết quả là những cuộc giao tranh đẫm máu đã được phát khởi đồng loạt tại lãnh thổ VNCH, đặc biệt trong Phân Đoạn I của bài viết này, là những trận chiến khốc liệt nhất, đã xẩy ra đúng vào đầu mùa mưa năm 1972 !
Đấy chính là lý do mà một thị trấn nhỏ bé, nằm ém trong vùng rừng cây, giữa những đồn điền cao su trải dài ngút tầm mắt của tỉnh Bình Long; cho nên vào thời điễm đó, khiến cả thế giới bỗng chốc được nghe nhắc đến tên An Lộc.
An-Lộc, do đó còn được coi như là biểu tượng của một cuộc tranh chấp quyết định giữa hai phe Quốc Gia và cộng sản (tưc Miền Nam Tự Do và cộng sản miền bắc độc tài, khát máu).
An-Lộc, một danh từ kép, là địa danh được nhắc nhở một cách trang trọng, ghi dấu một trận chiến thắng ‘Anh Dũng’ của quân và dân tỉnh Bình Long vào đầu mùa Hè năm 72.
An-Lộc, mặc dù chỉ là một thị xã hành chánh thuộc Quận Châu Thành, tỉnh Bình-Long, bỗng dưng được coi là một trong 3 mặt trận quan trọng nhất, lúc đó đang đồng loạt bùng nổ tại các Quân Khu 1, QK 2 và QK 3; của VNCH.
Quân sử tất nhiên đã ghi nhận, suốt hơn hai tháng trời ròng rã, thị trấn An-Lộc bị quân cộng sản bắc việt xâm lược bao vây, pháo kích và cường tập gồm cả gần chục lần.
– Về phần không gian, với một diện tích rộng chỉ gần 4 cây số vuông, An-Lộc đã có lúc bị Cộng quân tấn công nhắm ‘dứt điểm’ cho một cuộc xâm lược bằng vũ lực, đã buộc phải co lại chỉ còn gần một nửa phần thị trấn ở phía đông nam thị xã.
– Về phương diện chính-trị, ngược lại, thì quả thật là to lớn “vĩ đại” theo đúng như lối tuyên truyền của phía bắc quân. Do cung từ của một trong những tù binh bộ đội, cộng sản bắc việt và vc (Trung ương cục miền Nam) mưu toan chiếm lấy cho được thị trấn An-Lộc để làm địa điểm ra mắt cho một chính phủ “ma” của bọn bù nhìn ‘Mặt trận Giải phóng’!
Với mục đích đó, bọn bắc quân xâm lược do Võ Nguyên Giáp, tổng chỉ huy, đã cho phát động chiến dịch mang tên Nguyễn Huệ, như đã đề cập: nhằm tung toàn lực các binh đoàn chính qui cùng xe tăng và vũ khí ồ ạt tràn qua khu phi quân sự, trước tiên tạo nên mặt trận phía cực bắc của VNCH:
– Tấn công vào Đông Hà, thuộc tỉnh Quảng Trị (ngày 30 tháng 3-72).
– Tiếp tục xua đám thiếu niên “sinh Bắc, tử Nam” xâm nhập bằng đường mòn hcm, vượt Trường sơn vào đánh vùng phía tây, cao nguyên Kontum, khởi đầu với mặt trận Tân Cảnh (ngày 24 tháng 4-72).
– Mặt trận thứ ba, cuối cùng và đương nhiên được coi là quan trọng hơn cả, đã được tướng Giáp khởi động, tấn công vào tỉnh Bình Long (cánh quân ‘tiến công’ này bắt đầu đánh vào Lộc Ninh tối ngày 04 tháng 04-72).
Mặt trận xẩy ra tại tỉnh Bình-Long được coi là nguy hiểm hơn cả nếu đem so sánh với Quân khu 1 và QK 2. Vì cuộc giao tranh có tính cách quyết định này chỉ xẩy ra ở một vị trí cách thủ-đô Sàigòn khoảng một trăm cây số về hướng bắc, theo đường chim bay. Dư luận cho rằng nếu vì một lẽ gì mà An-Lộc bị thất thủ vào tay quân cộng sản bắc việt, thì sớm muộn Sài Gòn, thủ-đô của miền nam cũng sẽ bị nguy ngập.
Cuộc xung phong ồ ạt của hơn 4 sư đoàn - công trường ‘bộ đội’ (“sinh bắc, tử nam”) vào bốn phía của thị trấn An Lộc, trực thuộc quyền tổng chỉ huy của Võ Nguyên Giáp, được khởi đầu vào đêm 11 rạng ngày 12-4-72. Nhưng thực tế, theo tin tình báo A2 của lực lượng bạn, sự xuất hiện của các đơn vị cộng sản bắc việt và vc đã bị phát giác khoảng hơn cả tuần lễ trước đó.
 ■Quân cs bắc việt (Tổng số đông gấp khoảng 5 lần lực lượng VNCH trấn giữ An-Lộc) bao gồm toàn bộ của hơn 4 sư đoàn - thuộc công trường 5, 7, 9 và công trường Bình Long (địa phương) và đoàn 28 đặc công + 429 đặc công miền; với một tổng lượng quân số vào khoảng từ 60 đến 70 ngàn lính, cộng thêm các đơn vị yểm trợ ở cấp trung đoàn, như: đơn vị xe tăng với các chiến xa đủ loại (T 54, T 59, PT 76,..) do quốc tế cộng sản viện trợ, đơn vị pháo và đặc biệt là các loại vũ khí gồm pháo và phòng không tối tân nhất (?) do Nga Sô viện trợ như: đại bác 75 và 90 ly, cao xạ phòng không 37 ly, hỏa tiễn SA 7, giàn phóng hỏa tiễn 107 và 122 ly, đại pháo 130 ly…
■Về phiá VNCH lực lượng bảo vệ thị trấn An-Lộc, quân số hiện diện vào cỡ 15 tiểu đoàn, khoảng 7.500, với thành phần chủ lực thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh, dưới quyền chỉ-huy trực tiếp của Tướng Lê Văn Hưng, cộng thêm đơn vị Địa Phương Quân, lính cơ hữu và Cảnh Sát của Tiểu Khu Bình Long; với sự yểm trợ của một pháo đội với vài khẩu đại bác 105 và 155 ly.
Do sự chi phối của các mặt trận khác tại QK1 và QK 2 cùng xẩy ra vào lúc đó, quân số tăng viện cho Quân Khu 3 cũng chỉ lên được tới khoảng hơn 10,000; Gồm những đơn vị Tổng Trừ Bị trực thuộc Bộ TTM (Đơn vị Nhẩy Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù), Không Quân, Thiết Giáp, Biệt Động Quân và vài trung đoàn Bộ Binh thuộc Quân Khu 4 tăng phái cho chiến trường Bình Long (thuộc QK 3).
Một số đơn vị tăng viện, đã ‘bị cầm chân’ tại phía nam An Lộc với những cuộc giao tranh đẫm máu xẩy ra tại dọc QL 13, con đường dẫn tới thị xã.
Võ Nguyên Giáp cho áp dụng chiến thuật cố hữu “Tiền pháo, hậu xung” và “Công đồn, đả viện”, nên đã tung một số trung đoàn thuộc sư đoàn CT 7, đặc biệt tấn công từ phía Tây nam An Lộc, với mục đích khống chế QL 13, con đường giao thông huyết mạch nằm hướng Bắc-Nam của tỉnh Bình Long.
Vì thế những cuộc điều quân phát xuất từ căn cứ Lai-Khê hoặc Chơn Thành nhắm tiếp vịện cho lực lượng phòng thủ An-Lộc; đã gặp phải những trận đụng độ mãnh liệt; gây tổn thương nặng nề cho cả đôi bên.
Cũng do cộng sản bắc việt mưu toan chiếm An Lộc vào năm 1972, nên con đường liên tỉnh mang tên QL13, đã được mệnh danh là “Quốc Lộ Máu”; vì đã được thấm đẫm máu của quân xâm lược cộng sản bắc việt lẫn máu của các Chiến Sĩ Anh Dũng VNCH bảo vệ Miền Nam Tự Do. Đặc biệt nhất phải kể đến máu và nuớc mắt của đồng bào vô tội tỉnh Bình Long; bị “lính bác hồ” pháo kích chết thảm trên con đường đào thoát về phía Nam để tránh bọn bộ đội cs bắc việt và các cán binh việt cộng MTGPMN.
 Sau hơn 2 tháng trời, các đợt pháo kích (tiền pháo) và kế tiếp là cường tập (hậu xung) của bộ đội cs bắc việt; hết thẩy đều gặp phải sự kháng cự, chống trả mãnh liệt của lực lượng VNCH, tức quân trú phòng tử thủ An-Lộc. Cộng thêm hỏa lực yểm trợ kịp thời và chính xác của Không Quân VNCH và Đồng Minh, áp lực địch do đó đã giảm lần theo tỉ-lệ thuận với thời gian sau hơn hai tháng trời thị trấn An-Lộc bị vây khổn.
Ngay từ lúc khởi sự cho một trận đánh quyết định, Võ Nguyên Giáp đã đem áp dụng lý thuyết và chủ trương điều quân (của việt minh cộng sản) bằng cách: “Tiến cẩn trọng, đánh chắc thắng”, “Điều nghiên thật kỹ, thấy chắc thắng mới đánh”!
Hơn nữa Giáp còn tận dụng “Tiền pháo, hậu xung”, tiếp theo dùng “chiến thuật biển người” cố hữu, nhắm tấn tấn công dứt điểm mặt trận. Cho nên một thị trấn nhỏ bé, tội nghiệp, cỡ như An-Lộc (diện tích gần 4 cs vuông) đã bị uy hiếp, trung bình đã phải hứng chịu khoảng từ 5 tới 7000 quả đạn trái phá do bọn bắc quân pháo kích mỗi ngày; Vì thế trong con số từ 5 đến 6 ngàn thường dân vô tội bỏ mạng trong cuộc ‘tiến công’ vào thị trấn, đã có tới 90% bị chết là do đạn pháo kích của bọn bắc quân xâm lược.
Một nhân chứng sống, trực tiếp chiến đấu để bảo vệ An-lộc (1) đã phải thốt lên như sau:
“ .Ở chiến trường này, đạn pháo của địch (CS Bắc việt) đã không nhân nhượng, khoan dung cho bất cứ một thứ gì. Từ một bàn thiên trước ngõ cho đến một con chó lạc chủ lang thang bên đường. Tất cả đều phải hủy diệt. Đó là điều mong muốn của địch. Nên đã chúng đã dùng pháo để băm vằm thành phố, băm vằm chúng tôi- những người lính đã quyết tử với họ…để giữ cho An-lộc được tồn tại trên phần đất tự-do miền Nam.”
Kết cuộc sự việc xẩy ra đã hoàn toàn trái ngược hẳn với những kế hoạch điều nghiên cũng như “triển khai” tại bộ chính trị đảng cộng sản bắc việt, của tập đoàn Lê Duẩn; lúc đó Võ Nguyên Giáp giữ trách nhiệm thực hiện kế hoạch.
Hết thẩy những lần cường tập tấn công của bọn bắc quân, bộ đội cộng sản, gồm pháo và tăng, mà Giáp tưởng chừng chiến thuật biển ngưới (Tiền pháo, hậu xung), hoặc tấn công bằng các loại tăng tối tân của Xô-viết, sẽ nắm chắc trong tay phần thắng mười mươi. Nhưng kết quả thảm hại nhục nhã xẩy ra tại mặt trận An-Lộc, đã ngược lại những điều Giáp toan tính. Hầu hết tất cả mọi mũi “tiến công” của bọn bộ đội cộng sản bắc việt đều bị lực lượng quân trú phòng của Tướng Lê Văn Hưng (VNCH) và hỏa lực Không Quân bẻ gẫy và đánh tan nát khiến chúng thất bại nhục nhã và phải lui trở ra khỏi phòng tuyến An-Lộc, bắt chúng phải rút vào vùng rừng rú nơi bọn chúng xuất phát.
 
Kết cuộc, các loại ‘tăng’ đã bị bắn hạ, vô số tử thi bộ đội cháy thui trong những đống sắt vụn khổng lồ, nằm bất động ngay trên các đường phố trong thị xã. Bọn cộng sản bắc việt, trên thực tế đã bị thiệt hại nặng nề cả về sinh mạng lẫn vũ khí. Được biết các loại thiết giáp nêu trên, là những ‘chiến cụ’ do khối cộng sản đàn anh Nga, Tàu viện trợ; được Giáp sử dụng đường mòn hcm, lén lút vận chuyển, xâm nhập vào phía nam vĩ tuyến 17.
* * *
Một lần nữa, sau hơn hai tháng, lực lượng cộng sản bắc việt tich cực vây hãm, “triển khai” nhiều đợt cường tập; tận dụng triệt để pháo kích, phòng không và tăng đủ loai. Cộng thêm nhân số của hơn 4 sư đoàn bộ đội; thực hiện nhiều đợt “tiến công” nhắm ‘dứt điểm’ An-Lộc; bọn cộng sản bắc việt vẫn không thể nuốt trôi được thị trấn nhỏ bé này.
Kết cuộc Võ Nguyên Giáp đành cam chịu thất bại nhục nhã, rút lui toàn bộ lực lượng thất trận ra khỏi chiến trường Bình Long, tháo lui trở về vị trí cũ là chốn rừng sâu để lẩn trốn. Nghĩa là lại tiếp tục nằm “ém quân” dọc theo vùng biên giới Miên Việt, gồm các khu vực trải dài từ Đăm-be, Mi-mốt, Chup tới Snoul…v…v.
Tướng Giáp sau khi đánh thua tan tác thê thảm tại trận An-Lộc, tên tuổi dần dần bị lu mờ trước Văn Tiến Dũng. Vào thời kỳ sau năm 1975, do những tranh chấp của phe cánh ‘”thân Nga và thân Tàu”; Giáp đã bị bộ chính trị trung ương đảng cs Hà Nội cho ‘gọi lên làm việc’, ‘viét bản tự kiểm thảo’, ‘bị khiển trách’, và bị bổ xung qua một “khâu” khác hoàn toàn không có tính cách ‘quân sự’; nên từ đó đành phải ngậm miệng để chờ một cơ hội khác (?)
Tóm lại, mặt trận An-Lộc hay chiến trường Bình Long tại Quân Khu 3, đã chấm dứt với phần thiệt hại nặng nề thê thảm thuộc về bọn giặc xâm lược do Võ Nguyên Giáp tổng chỉ huy, tức cộng sản bắc việt và bọn vc (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam).
Nói chung, mức tổn thất của các sư đoàn - công truờng cộng sản (Phần lớn bao gồm bọn thiếu niên bắc việt, được “đánh bóng” và tuyên dương vào thành phần “Sinh Bắc, Tử Nam” !) được ghi nhận lên tới 60% là do hỏa lực của Không Quân bạn, đặc biệt là các pháo đài bay B-52. Kết quả có lần được ghi nhận nguyên cả một trung đoàn lính cộng phỉ, cùng đủ loại tăng, pháo đã bị vùi xâu trong những hố bom to lớn của các phi vụ Không Quân Chiến Lược loại này.
Trước khi tạm chấm dứt bài viết, tựa đề “Sự thất trận An-Lộc, khiến huyền thoại Điện Biên (54) của VN Giáp bị xụp đổ”, tác giả xin ghi nhận sau đây một đoạn tin chiến sự quan trọng:
 “Sau ngày 12-6-72, nhìn ngọn “Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ” phất phới tung bay ngạo nghễ, đã được một đơn vị Biệt Kich Dù VNCH cắm trên đỉnh đồi Đồng-Long; Người Hùng An-Lộc, Tướng Lê-Văn-Hưng đã tuyên bố: “Thị trấn An-Lộc đã được hoàn toàn giải tỏa“ !
Những nguyên nhân chính đã khiến đưa đến sự thất bại thê thảm và nhục nhã, đặc biệt tại mặt trận An-Lộc, của bộ đội tướng Giáp (cộng sản bắc việt) cần phải được ghi nhận với những chi tiết sau đây:
* Giáp thua trận vì đánh gía sai ‘địch’ (VNCH).
* Giáp thua vì không có “Yếu tố Nhân Hòa” (dân chúng bỏ chạy xa lánh bọn cộng sản).
* Giáp thua vì chính lối ‘tuyên truyền dối trá theo kiểu cộng sản’.
* Giáp phải thụ giáo Tướng Hiếu (VNCH) về chiến thuật “Nhị Thức Bộ Binh và Thiết Giáp”.
* Võ Nguyên Giáp là “tên sát nhân“ vì áp dụng ‘chiến thuật biển người’ của Mao Trạch Đông (TC).
Nguyễn Ngọc Tùng
Ghi chú (1):
–Trich trong bài “Nhớ về An-Lộc” của Thiếu Tá Nguyễn Sơn, Cựu Đại Úy - Đại Đội Trưởng Đ/Đ 2, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù.

TỔNG LƯỢC VỀ TRẬN ĐÁNH TÁI CHIẾM CỔ THÀNH QUẢNG TRỊ Chu Tất Tiến.

Tháng 12, năm 2020, một nhóm người trẻ thuộc thế hệ thứ 2 đã xin được sự đồng thuận 5/5 của thành phố Westminster cho phép xây dựng Tượng Đà...