Tổng
thống Thiệu đọc thông điệp mới, báo hiệu một chính sách mở ngõ để Việt
cộng tham dự vào hoạt động chánh trị của miền Nam, các chính khách, kinh
tế gia chuẩn bị đường lối chính trị và kế hoạch kinh tế hậu chiến. Quân
Việt Nam bắt đầu thay quân Mỹ. Những hiện tượng dồn dập xảy đến báo
hiệu về thế sống mới. Tôi cũng có những ý nghĩ "hậu chiến" cho bản thân.
Hậu chiến, sẽ không còn những đụng độ lớn, Việt cộng sẽ hoạt động dưới
một hình thức đấu tranh khác về chính trị, kinh tế, có thể hạ tầng cơ sở
du kích vẫn được duy trì. Nhưng dù sao đi nữa, tôi sẽ không còn cơ hội
để chết non. Lẽ tất nhiên vẫn có những cái chết lãng nhách như rơi máy
bay, lính làm nổ lựu đạn, cướp cò, nhưng chắc chắn chẳng còn những cái
chết "bảo đảm" như bây giờ. Hậu chiến đặt ra trước mặt chúng tôi những
vấn đề thật rõ rệt, nhìn thẳng thì khó chịu nhưng tránh đi thì nó vẫn
còn đấy, như một hiện sinh phi lý nói theo kiểu của ông Sartre. Hậu
chiến, một số lính cũng như quan sẽ được giải ngũ, tôi không thuộc thành
phần này, vì là lính nhà nghề, sẽ nói rõ số phận này sau. Mấy anh được
giải ngũ sẽ làm gì? Chẳng làm được cái gì hết trọi. Trừ một số nhỏ bị
động viên sẽ trở lại nhiệm sở cũ, đi dạy học... Tôi không dám bàn rộng
đến khía cạnh kinh tế, chỉ thắc mắc mỗi điều: Xã hội lúc bấy giờ có đủ
khả năng để thâu dụng số nhân lực không sản xuất đó hay không? Tôi muốn
nói đến các anh đi lính từ năm mười tám tuổi, giải ngũ ra các ông đó có
nghề gì? Tập họp nào thâu dụng được đám người không nghề chuyên môn, đã
quen với bom đạn trên dưới mười năm.
Hậu chiến, lính còn lại sẽ biến thành công chức;
trung đội, đại đội, tiểu đoàn trưởng sẽ hàng ngày ngồi nhìn nhau tại hậu
cứ, giày đánh bóng, búc nịt cũng đánh bóng kiểu như các sĩ quan ở quân
trường. Lẽ tất nhiên rồi cũng sẽ quen đi. Nhưng thói quen nào được chấp
nhận trong những tâm hồn đã chai cứng và cơ thể lệch lạc vì thương tích.
Những người bạn thân hay không, khắp bốn vùng chiến thuật, ở các đơn vị
chiến đấu, không ai không có mảnh đạn trong người. Dư và Năng ở Biệt
động quân bị thương đến độ hết phương chữa, đứng bên cạnh cũng không
nhận ra mặt. Gần gũi hơn là lũ bạn ở các tiểu đoàn Nhảy dù, không một
thằng nào có thể gọi là mẹ tròn con vuông. Sơn "độc nhãn" người gầy như
con mắm, con mắt bằng chai bỏ trong túi, vẫn hành quân chăm chỉ trong
mười năm không một khóa học, phép thường niên do bệnh viện cấp. Đấy chỉ
là hư hao thể chất, còn tâm hồn, âu cũng là khu rừng hoang cho cỏ lan.
Không ai có thể tưởng được cảnh nổi loạn của Mễ, thưở đi học mẫu mực vào
đến trường Võ Bị nên sinh viên sĩ quan cán bộ, con cưng của "Thạc sĩ Cơ
bản thao diễn" Huỳnh Bửu Sơn, nhưng đến bây giờ trông cảnh nó chơi đòn
giang hồ mọi người đều ngán ngẫm. Trời mùa đông ở Mỹ Chánh mưa giăng kín
mặt sông, bên kia làng địch, Mễ cởi trần đeo súng Colt ở cổ, thổi phao
bơi qua sông mua rượu. Chưa bao giờ tôi nghe nó thở than một điều gì
nhưng trong đêm khuya, nơi căn trại vắng ở Tam Hiệp, trong bóng tối, nó
ngồi im như một nỗi cô đơn.
Đại loại lũ chúng tôi "hư" đến như thế, trong mười
thằng có đến chín sau bao nhiêu năm đi làm quan không mua được một cái
đồng hồ, không biết giờ tan sở Chính phủ ấn định là mấy giờ. Như vậy làm
sao kéo chúng tôi vào trong một sinh hoạt đều đặn của trại lính biến
thành công sở. Rồi cũng xẩy ra những tỵ hiềm, những xung khắc ti tiện,
nhòm ngó đàn bà... Chúng tôi đi lính bao nhiêu năm, lẽ tất nhiên quá
quen với đời sống kỹ luật; nhưng kỹ luật này co giãn, thay đổi theo mỗi
hoàn cảnh của mỗi người, không có kỹ luật nào bắt lính nhịn đói hai
ngày, nhưng luật của đại đội trưởng là phải la hét, quát tháo, kích
thích binh sĩ, phải dựng đứng thân thể họ dậy và đẩy về đằng trước. Lẽ
tất nhiên kỹ luật của quân đội sẽ vô cùng xuống giá trước cảnh "diễn
nghĩa" của Lô cùng với cả trung đội cởi truồng say khướt trong một thửa
ruộng ở Vĩnh Lộc, hay của Năng lúc ở tiểu đoàn 52 Biệt động quân, nhưng
ai cấm được binh sĩ của chúng cảm phục và hãnh diện vì có những đại đội
trưởng sáng gia hào hùng. Kỹ luật của chúng tôi bất thành văn chỉ có giá
trị cho riêng mỗi người. Thế cho nên nếu bắt chúng tôi về lại với thứ
nguyên tắc cứng nhắc vớ vẩn đại diện là mấy anh quân cảnh, hỏi thằng
lính tác chiến nào nuốt nổi.
Mãn sở rồi, cai, đội hồi hương
Trai lui về làm ruộng...
Hậu chiến thưở xưa được giải quyết êm đẹp như câu
hò trên, nhưng hậu chiến bây giờ chúng ta sẽ làm được gì? Trung bình
chúng tôi có tú tài, tú tài năm 1969 chỉ có thể đi làm thơ ký quèn,
nhưng hậu quả trên dưới mười năm lính chúng tôi đã thành loại người để
chỉ huy hoặc tuân lệnh. Giải ngũ trở lại với đời sống thường, nghe những
anh già lẩm cẩm, những anh trai trẻ cù lần sai bảo chịu sao nổi?
Lũ bạn chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau, một
người đi đến, dẫn thêm một tên bạn mới. Làm gì? Làm sở Mỹ. Tôi lúng túng
khổ sở không biết gợi chuyện với hắn ta như thế nào! Trường hợp gặp một
anh nhà binh không ở đơn vị tác chiến tôi cũng chả biết có chuyện gì để
nói với. Kể cho nghe những ngày phá phách ở Pleiku, cho biết tin một
thằng ở Biệt kích chưa được lên lon, làm sao anh ta hưởng ứng với được?
Chúng tôi đã có một lối sống thành nếp với một số bạn bè hạn chế, thói
quen tật xấu cũng như tính tốt của mỗi người đều được biết rõ, một người
lạ xuất hiện gây nên một cảm giác khó chịu kỳ quặc, cũng như cái cảm
giác lạc lõng ngơ ngác khi tôi bước chân vào một sân trường để xin cho
đứa em vào học. Thế giới chúng tôi kín cửa dù có nhọc nhằn phiền muộn
cũng đã một chỗ ngồi quen hơi.
"Các anh là một giai cấp sĩ quan quí tộc..." Lúc
xưa Đại Tá Huyến đã thổi chúng tôi lên như vậy. Sau này trong những ngày
tang thương nhất của đời lính, đóng ở đài phát thanh Sài Gòn để chống
biểu tình, căng chiếc võng ngủ ở chỗ nhà để xe của nhân viên trong đài,
thấy giá trị của mình còn kém xa các anh thợ hát. Tôi đã gặp lại Đại Tá
Huyến trong hoàn cảnh đó để đồng ý với ông ta rằng chúng tôi chẳng có tí
ti "quý tộc" nào cả! Nhưng phải nói thật, ông đã gieo vào lòng trai trẻ
của chúng tôi trong những năm đầu tiên niềm hãnh diện đích thực được
làm một sĩ quan tình nguyện chọn binh nghiệp làm nghề - Một nghề đầy hy
sinh và cao cả. Bố khỉ, đến năm nay thì chân lý cao cả kia trông yếu
quá, lương quan ba "thiên thần mũ đỏ" không nuôi tấm thân tàm tạm, nhà
phải đi ở thuê, nhỏ bằng hộp quẹt thở mạnh bung cả mái... Ở gần nhà có
một bà nạ giòng, loại "nouveau riche" mở lò bánh mì, chẳng biết phát tài
ra làm sao, con mẹ mua một lúc ba chiếc xe, trong đó có một chiếc
Mercédes 220. Thấy cái nhan sắc hoàng hôn, trang điểm theo kiểu
technicolor cuœa đào ciné già cỡ 1930 ngự trên chiếc xe, thật đau lòng
cho giai cấp quý tộc của tôi quá! Chưa hết, có một ông trung tá biết bà
ta buôn bán phát tài đến xum xoe xin hùn vốn. Ôi! Tôi nghĩ ra tương lai
cũng sẽ là một anh trung tá đi mở lò bánh mì hay làm trại heo với điều
kiện có tiền làm vốn. Nhưng con đường đã vạch ra rồi đấy, bạn bè tôi
thậm chí đến cả Lô "lọ rượu" còn xúi tôi chạy áp-phe... Chạy áp-phe,
chắc chắn không bao giờ có được trong chương trình huấn luyện của trường
Võ Bị Quốc Gia và Đại Tá Huyến ắt sẽ vô cùng ngạc nhiên khi thấy Lã Quý
Trang, sĩ quan á khoa của khóa tôi, một thằng nghệ sĩ đầy mình hát hay
chẳng kém Duy Trác vẫn chạp áp-phe đều đều. Tôi không biết rõ nó có kiếm
được tí nào không, nhưng nghe lời thở than...
- Không kiếm chác là đọi đấy mày ạ, tao vợ hai con rồi, nhà lại ở thuê...
Thôi xong rồi, ngày nó cầm gươm đi diễn hành sao mà đẹp đến thế. Đời đã giết nét tài tử trong tâm chất của nó.
Đấy, chưa là hậu chiến sĩ quan đã bơ vơ lếch thếch
đến thế. Tưởng chỉ có ở trong tiểu thuyết Les frères của Karamazov, viên
đại úy đi đòi nợ cho điếm. Hậu chiến chưa đến, nhưng con điếm trong xóm
tôi đã đến nhà nhờ tôi lãnh dùm thằng chồng ma-cô của nó ra khỏi ty
Cảnh sát. Xin Chúa hãy phù hộ cho con! May quá tôi cũng có vốn thanh
liêm nên chối từ. Nhưng nếu hậu chiến, giải ngũ trong cảnh vợ con nheo
nhóc, ai cản tôi áo hoa nón đỏ vào ty Cảnh sát lãnh hộ mấy thằng ma-cô
kiếm tí tiền còm!
Cuối năm 1969
Chương 25: Đi Về Hướng Tây...
Chiếc
máy bay quay mũi về phía thành phố, mặt trời sau lưng bắt đầu chìm
xuống bìa rừng. Lấy con lộ đá làm chuẩn hai anh phi công bắt đầu cuộc
đua, hai chiếc trực thăng đâm chéo vào nhau, lướt trên ngọn cây, gần như
chạm sát mặt đường, vạch đá đỏ dưới chân chạy ngược vùn vụt... Nhắm
mắt, một ngày mệt mỏi và căng thẳng đang hết. Tôi sắp được nghỉ ngơi.
Núi Bà Đen đã phủ hơi sương, khối đá, cây cỏ xanh rì thẩm dần vào bóng
tối. Thành phố Tây Ninh vừa lên đèn.
Tây Ninh, thành phố không giống một nơi nào của
miền Nam càng không giống một thị trấn nào của miền Trung. Thành phố
biên giới theo lộ đất đỏ đi Katum, theo quốc lộ 1 từ Gò Dầu Hạ tiếp
đường 22... Tất cả mọi nẽo đều dẫn đến biên giới. Biên giới, đồng cỏ
ngút ngàn lặng lẽ váng vất khắc khỏai, hai đồn lính nằm trơ trọi, tấm
bảng viết hai chữ Việt, Miên. Biên giới, nghe nao nao trong lòng cơn bồi
hồi khi chân bước lên mặt nhựa sát gần cây cản đường, trên đồng cỏ thấp
thoáng bóng người tới lui im lặng. Biên giới, âm thanh mang vẻ ngỡ
ngàng hờ hững và không gian như bị bít lối. Trong không khí đặc dị đó
Tây Ninh buổi sáng gây gây rét, trời im không gió, không nắng, xe nhà
binh, lính mang súng đầy ắp con phố chính, thành phố bắt đầu ngày với
mùi đao binh, tăng dần độ nóng bởi khói xăng pha nhớt. Thành phố căng
thẳng như viên đạn đã lên nòng. Sáng qua, chiều tới và... Đêm xuống. Đêm
xuống mau, thành phố vắng, ngọn đèn vàng khu chợ, bóng người lính lao
xao thoắt ẩn thoắt hiện, lính mang giày há mõm, áo rách, mặt đen bụi đỏ
trầy trụa vì gai rừng, đâu đây vang tiếng cười lanh lãnh chông chênh.
Uống đi... Hơn hai tháng không ngậm được cục nước đá, uống đi, mai theo
Chinook vô lại biết đâu trưa là chết. Uống đi, đ.. má cứ tưởng tượng
"nhai" được miếng bia thì chết cũng đáng... Ha, ha cho thêm một hộp nữa.
Đêm Tây Ninh với những người lính sống giữa khe hở của sống chết.
Tôi đứng trên đài cao, với một cái loa, lá cờ đỏ,
những tấm bảng có kẻ chữ V,J,C,B... V là Vichy, Jackie, Carolyne,
Barbara, những căn cứ hỏa lực cách biên giới vừa tầm súng cối địch. Zulu
đây Nam Xương đang cần Class A. Zulu đây Nam Xương, Carolyne yêu cầu
Hardmission... Zulu là tôi, Nam Xương cũng là... tôi. Zulu là tôi khi ở
trên đài, trên đường đi, trên trực thăng, trên bãi Fox... Nam Xương là
tôi ở nhà, ở trung tâm hành quân nhận yêu cầu từ các căn cứ, nơi có lính
dưới hầm, lính đang chong mắt chờ pháo, lính đang liếm môi chờ nước.
Class A là thức ăn, hard-mission là khẩn cấp, là đạn, không có không
được. Như con thoi chạy mãi trên trục lửa: Căn cứ - Thành phố. Đài kiểm
soát - Bãi bốc hàng. Phi trường - Phòng hành quân. Tôi lái xe như gió,
hét như sấm, lồng ngực nổ máu nóng, cổ họng nghẹt cứng vì khói và hơi
nóng phản lực của phi cơ. Tôi mờ mắt vì trên cao độ mông lung thấy đạn
phòng không đan một lưới lửa dưới thân tầu và căn cứ Vichy bập bùng khói
bụi... Địch đang pháo kích.
Ngày hết trở lại đêm, Tây Ninh âm ĩ như miếng sắt nóng đỏ đang nguội dần.
Trong bóng tối của nhà xác, tôi đứng tần ngần bên
một gói poncho im lặng. Gói xác người lạ lẫm, không có khối tròn của
chiếc đầu. Phước đã chết vì một qủa B.40 nhắm thẳng vào mặt. Hai chiếc
giày của người chết đóng lớp đất vàng có những cọng cỏ còn tươi dính vào
kẽ dây giày. Người chết sớm hơn cỏ cây, chưa kịp khô. Buổi trưa, trước
khi chết khỏang nửa giờ tôi còn nghe tiếng nói của Phước vọng qua loa
khuếch đại máy truyền tin tại phòng hành quân...
- Nam xương đó hả, cám ơn mi cho tao mấy hộp bia...
Thôi nghe, tao đang "gom bi" (điều chỉnh pháo binh), hai ngày nữa ra
gặp mi...- Hai ngày nữa, hai ngày nữa... Nghe lồng lộng trong không gian
nỗi vui mừng sảng khoái tội nghiệp của kẻ sắp được uống nước đá, ăn cơm
nóng và... quay cái cổ cho đã!!! Không có hai ngày hân hoan kia cho
Phước nữa, chỉ còn nửa giờ cho một đời. Chỉ còn nửa giờ cho một người.
Người rất muốn sống.
Ở Tây Ninh, buổi trưa trong những giờ tạm nghỉ trên
đường đi đến nhà ăn, ngang qua những căn nhà lợp tôn, tường cói mỏng,
nơi nghỉ ngơi cho lính Mỹ sau ba tuần trong rừng. Đi ngang qua các căn
phòng hé cửa, sau bức tường mỏng manh nghe từ trong đó giọng cười hăng
hắc khoái trá của giống cái Việt Nam được chạm vào nơi kích thích chen
lẫn tiếng gầm gừ của những người trẻ tuổi tóc vàng vừa đến tuổi thanh
niên, những người đang tập uống rượu say đắm cuộc đời qua thân thể một
phụ nữ da vàng mốc thếch.
Sát biên giới, đuổi giặc ra khỏi biên thùy, đất đai
như một kích thích tố cụ thể, lính Nhẩy dù chịu đựng như không thể chịu
đựng hơn, tác chiến như không có đơn vị bộ binh nào tác chiến bằng.
Cùng phối hợp hành quân với Sư đoàn Kỵ binh Không vận Mỹ, Sư đoàn Bộ
binh số 1 của thế kỷ, tác phẩm toàn hảo nhất của Bộ trưởng Quốc phòng
MacNamara; cũng là sản phẩm hãnh diện không nhược điểm của kỹ nghệ chiến
tranh hiện đại. Đứng cạnh Không kỵ hay First CAV, những sư đoàn bộ binh
Mỹ ngượng ngùng lép vế không cưỡng chế, Big Red One, Đệ Nhất Sư đoàn bộ
binh với gần một thế kỷ truyền thống; Sấm Sét miền Viễn Tây,Sư đoàn 25
Bộ Binh, nổ lực chính của quân lực Mỹ trong trận chiến Cao Ly và ngay cả
Thủy quân Lục chiến, biểu tượng anh dũng của quân lực Mỹ... Tất cả khi
đứng trước First CAV cũng cảm thấy có một thua sút không bù trừ nỗi. Đệ
Nhất Sư Đoàn Không vận có gần năm trăm phi cơ trực thăng, ba bộ chỉ huy
lữ đoàn với khả năng tác chiến biệt lập có thể đảm trách vùng trách
nhiệm cấp sư đoàn. Mỗi lữ đoàn Nhảy dù phối hợp với một lữ đoàn không
kỵ, lữ đoàn tôi cùng với lữ đoàn 1 không kỵ Mỹ giữ vùng trách nhiệm bắc
Tây Ninh, Lữ đoàn 1 Dù với 2 Không kỵ chịu phần Phước Long, Bình Long.
Các khu vực trách nhiệm của mỗiTiểu đoàn Dù và
Không kỵ chen lẫn nhau trải qua ba tỉnh Phước Bình, Bình Long và Tây
Ninh. Nguyên tắc là phối hợp hành quân, nên vùng trách nhiệm của Mỹ và
ta rộng ngang nhau, nặng ngang nhau vì được đo lường... ngang sức nhau.
Nhưng đấy chỉ là nguyên tắc,thực tế thì khác xa, xa diệu vợi, xa ngút
ngàn. Khả năng của Không kỵ Mỹ vô cùng, Dù Việt Nam hạn chế, căn cứ Mỹ
được 175 ly yểm trợ trực tiếp và 105 ly yểm trợ tăng cường, trong khi
Việt Nam thì trái lại. Căn cứ hỏa lực của Mỹ là một thành phố thu hẹp
với trạm cứu thương, bãi trực thăng Chinook, bãi trực thăng VIP, đường
tráng nhựa, nhà bếp nấu thức ăn nóng cho toàn tiểu đoàn và máy bay riêng
cho tiểu đoàn trưởng, trực thăng võ trang ưu tiên yểm trợ, tiếp cứu.
Blue Max, Pink Max (trực thăng võ trang) thường trực trên không phận của
mỗi khu vực hành quân của từng tiểu đoàn để yểm trợ chiến thuật ngay
phút đầu chạm địch. Nhảy Dù Việt Nam tuy gọi là phối hợp hành quân nhưng
lẽ tất nhiên không thể có ưu tiên tuyệt đối như Mỹ, căn cứ hỏa lực được
kiến tạo do sức của đôi tay và yếu tố quyết định chiến trường nằm trên
mũi súng của mỗi người lính. Và cách xa vật chất của hai loại lính trong
cùng một chiến trường, cùng cường độ là khỏang trống không thể bù. Lính
Mỹ, áo quần dơ được trực thăng đem về Tây Ninh giặt, hai tuần trong
rừng, một tuần tại căn cứ hỏa lực, một tuần được về Tây Ninh nghỉ; chiều
có thức ăn nóng với khẩu phần ẩm thực số 1. Lính Dù áo quần vá bằng dây
thép, băng keo, uống nước hố bom cũng là huyệt người chết, một tháng về
căn cứ hỏa lực (mỗi tiểu đoàn có một căn cứ) tạm nghỉ để có thể ngước
mặt nhìn trời không bị cây rừng che khuất và uống nước ống đạn mang từ
Tây Ninh mang vào với tiêu chuẩn mỗi người một nón sắt. Cùng cường độ
chiến trường, vận tốc hành quân, cùng gánh nặng nhiệm vụ, dù thua xa bao
nhiêu phương tiện, thiếu bao nhu cầu cũng phải gắng đến đuối sức. Phải
gắng hết lực — Danh dự quân lực, quốc gia nằm trong lần phối hợp này.
Thế nên trên chiều rộng gần một trăm năm mươi cây số từ Tây Ninh qua
Phước Long từ biên giới vào nội địa người lính Dù Việt Nam cong lưng
xuống dưới gánh nặng có mùi vị ẩm mốc của nước mắm, thịt, gạo, mỡ, tay
cắp súng. Tay thêm thùng đạn tăng cường, bấm đôi chân trên mặt đất — Đi
và đụng địch. Đụng liên miên, đụng dài dài... Tiểu đoàn 7 đang hối ARA
(ám danh gọi trực thăng võ trang) vào vùng thì quanh căn cứ Carolyne của
tiểu đoàn 11 Cộng quân đang thổi kèn xung phong. Tiểu đoàn 2 Dù đang
hô: Phải cho thêm kẹo cho gà cồ gấp. (đạn pháo 105). Gà cồ gáy, bánh
chưng nổ, đom đóm gần hết (đạn 105, mìn nổ, mìn chiếu sáng hết...) Tất
cả hối thúc dồn dập vang vang trong máy truyền tin, tôi như có cơn sấm
dậy trong đầu, mệt nhọc bỏ qua, phải bỏ qua vì ngày ngày bay trên rừng
xanh, ngày ngày đáp trên đất vỡ, tôi gặp bạn bè, tôi thấy lại lính cũ để
nghe những tiếng nói, những câu than nhỏ... Khổ quá, khát quá. Tôi nhìn
những chiếc má hóp, những sợi râu úa, những ánh mắt khô... Từ tháng
Mười 69 đến hôm nay tháng Một 70 không nhìn thấy một mảnh trời quang
huống gì là một ngày bình yên. Cộng quân thật thâm độc, chúng gom lực
lượng nhất định đánh vỡ vòng đai bằng cách cường tập vào các căn cứ Nhảy
dù. Nếu quân ta vỡ, Mỹ sẽ mất tinh thần theo. Đánh Nhảy dù còn là đòn
tâm lý độc hại cốt chứng tỏ sự hận thù nhắm mạnh hẳn về một hướng. Nhưng
quân ta cứng như khối thép, mạnh như cuồng phong, từ các căn cứ các đại
đội càng ngày càng bung rộng, đánh ngày không được, đợi đêm đánh. Tại
trung tâm hành quân người ta nghe nhưng lời đối thoại chắc nịch:
- Tôi biết ở đấy có hai 12 ly 7 ( Phòng không 12 ly
7), Đại bàng (Vị chỉ huy) cho tôi và con cái (lính) ăn uống xong, đến
đêm tôi sẽ xung phong.
Những lời nói rất thường ở ngôn từ nhưng lồng lộng ý
chí quyết thắng. Sự can trường hình như làm căng mạch máu đoàn quân vì
tiến quân lên hướng Bắc nhưng thật ra đi về phía Tây của Việt Nam, đoàn
quân đang dẫm lên phần đất mông lung linh diện của biên giới — Đất vô
hình nhưng khí thiêng Tổ quốc hình như lẩn khuất quanh đây — Lính Nhảy
dù mạnh vì mang trong lòng tâm thức — Đuổi giặc ra khỏi biên giới. Tâm
lý đắm chìm không phân tích, luận lý nhưng thôi thúc mỗi người trong mỗi
ngày mỗi phút đừng ngã xuống để tiến lên. Số vũ khí tịch thu làm Không
kỵ ngất ngư. Không thể ngờ có sức chiến đấu tuyệt vời như thế trong
những cơ thể chỉ bằng đứa bé ở Mỹ Châu. Lính Không Kỵ giật mình — Huyền
thoại về Nhảy Dù Việt Nam là một huyền thoại có thật.
Chiến dịch mở dài cho đến tháng Năm để tiến thành
cuộc hành quân vượt biên đánh vào hậu cần Mặt Trận Giải Phóng ở đất
Miên. Tôi không tham dự hành quân này và phải ra khỏi binh chủng. Mỗi
ngày nơi phòng hành quân của chỗ làm mới nghe bàn tán xôn xao về những
địa danh... Lưỡi Câu, Mõ Vẹt, đồn điền Mimot, Snoul... Tôi đứng ở trước
tấm bản đồ phủ bụi dí ngón tay qua các điểm Tây Ninh, Katum, Sông Bé...
thấy lại trước mắt dãy rừng miền đông Nam bộ chập chùng ngút ngàn mờ hơi
khói, bập bùng những nấm khói đạn pháo binh và đoàn quân di chuyển âm
thầm trong bóng lá, trên đất khô lẫn bụi vàng... Chỉ là hai tháng trước
đây. Tôi vừa qua một cảnh đời của nghiệp lính.
Tháng 2-1970. Tây Ninh.
Căn Cứ Hỏa Lực Nhảy Dù Việt Nam
No comments:
Post a Comment