Do vận động của Ðỗ Thông Minh, Người Bạn Ðông Kinh từ hai thập niên qua của giới báo chí truyền thông, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của cộng đồng người Việt hải ngoại, tiếp theo lần tìm gặp, tiếp xúc chạy vòng từ đông-tây, dọc theo trục nam-bắc nước Mỹ qua trung gian của Dương Phục (Ðài Phát Thanh Sài Gòn- Houston, Texas), và Huỳnh Lương Thiện (Báo Mõ, San Francisco, CA).. Cuối cùng, người bạn kiếm ra anh nơi hẻm hóc, chốn giá lạnh, nóc nhà nước Mỹ để giao nhiệm vụ - Ði về phía Ðông, đến nói cùng người Nhật và thế giới Ký Ức về Chiến Tranh Việt Nam - Công việc mà tự thân anh đã tình nguyện gánh vác dài theo hơn bốn mươi năm của đời người, từ đầu thập niên 60, lúc chọn nghiệp lính vào năm thanh xuân 17 tuổi.
Người Lính-Viết Văn không có một nhiệm vụ nào khác- Phải nói, viết cho đến tận cùng - Bởi Nỗi Ðau nầy luôn là Nỗi Ðau chung.
Cách đây hai mươi năm, ngày 7 tháng 9, 1981, nơi
Trại Lam Sơn, Thanh Hóa bắc Việt Nam, bắt đầu lần kiên giam đợt thứ hai,
anh bước vào căn hầm kín cửa dài hai thước, rộng một thước, cao ba
thước, sau bốn lớp cửa gỗ bọc tôn thiếc, ngăn cách khu kiên giam với khu
giam giữ tù nhân; nhưng nếu tính với xã hội bên ngoài, miền đất phương
Nam xa xôi, thế giới của những quốc gia văn minh, dân chủ - Khu kiên
giam nầy, nơi giam tù cấm cố, hoặc tử tội chờ ngày đem đi bắn, cách biệt
đủ 10 cánh cửa - bằng số cửa địa ngục Dante mô tả trong The Inferno.
Người Lính-viết văn nhìn lên ô cửa thông hơi rộng hơn gang tay chắn lưới
sắt, tự hỏi: "Con người có thể đối xử với nhau như thế nầy hay không?
Người có thể bị kết tội từ những chữ viết mà quả thật không hề là một đe
dọa, xúc phạm đối với bất cứ ai?!" Trong nỗi bi phẫn khốn cùng ấy, quả
thật anh thấy được chết dễ dàng hơn phải sống - Tuy nhiên anh không hề
tuyệt vọng.
Anh không tuyệt vọng bởi vững tin: Sẽ có một ngày
(nếu như không phải bức tử), anh được quyền nói lên tình cảnh bi thảm
nầy. Bởi, tình cảnh đau thương mà anh phải hứng chịu, chứng kiến, sống
cùng, đã và đang trải qua không của riêng cá nhân anh; cũng không phải
chỉ là hậu quả thua trận của một quân đội; và cũng không là tác động có
giới hạn đối với những công dân của chế độ cộng hòa phần đất phía Nam
nước Việt. Không phải như thế - Nỗi Ðau không từ một ai, xuyên suốt theo
cùng Lịch Sử, rung động tự thâm sâu vận mệnh Dân Tộc Việt.
Qua hai vòng thế giới, xuyên suốt khắp đại lục Bắc
Mỹ từ ngày anh ra khỏi nước (5 tháng 11, 1993), hơn bốn mươi lần anh đi
đến nơi những cộng đồng Người Việt, ngày 14 tháng Giêng, 2002, Lễ Thành
Nhân cổ truyền của Nhật, nơi diễn đàn vinh hạnh, trước hiện diện của
những Người Bạn trung thực, thêm một lần, ước vọng sâu xa dài hơn phần
tư thế kỷ nay đã trở thành hiện thực. Anh cám ơn Bằng Hữu Thế Giới và
Ðất Nước Nhật Bản - Nơi đi lên của Mặt Trời, biểu hiện bất diệt Con
Người - Sự Sống. Và anh bắt đầu bản tường trình dài dường như không hề
chấm dứt về những con người của một quê hương khắc nghiệt bi thảm, nhưng
không thiếu phần siêu việt kỳ diệu - Người và Khổ Nạn Việt Nam.
Chiến Tranh Nhìn Từ Nhiều Phía
Buổi
sinh hoạt được tổ chức tại Trường Ðại Học Ngoại Ngữ, Học Viện Ngoại
Giao Tokyo vào Ngày Lễ Thành Nhân (14 tháng 1 Dương Lịch) của truyền
thống Nhật. Ngày lễ đánh dấu buổi con người từ tuổi thiếu niên nên
trưởng thành, khởi đầu giai đoạn mới - giai đoạn quyết định- từ đấy
người tự lập, chủ động cuộc sống riêng mình. Buổi sinh hoạt không vô cớ
chọn ngày, tháng, thời điểm ý nghĩa sâu xa nầy - ý hẳn ban tổ chức muốn
truyền đạt một thông điệp - Từ đây, chúng ta nhìn lại cuộc chiến không
chỉ tác động riêng đối với người và xã hội Việt Nam, nhưng liên hệ đến
nhiều sắc dân, quân đội của những chế độ chính trị khác nhau - những
nước đã từng tham dự cuộc chiến mà hậu quả đến hôm nay vẫn còn sâu xa
ảnh hưởng. Hội chứng Việt Nam hiện tại vẫn hằn sâu lên tâm lý giới cầm
quyền, điều hành nước Mỹ, cũng như hệ lụy Ðệ Nhị Thế Chiến, phần đau
thương của nước Nhật gây nên tự quân đội Nhật (đối với các nước vùng
Ðông -Nam Á, Trung Hoa, Ðại Hàn, Việt Nam), hoặc nhân dân Nhật hứng chịu
hôm nay vẫn hằng (được và phải) nhắc lại. Nhắc lại để tránh những lỗi
lầm của quá khứ, nhắm đến tương lai - Thiên niên kỷ Thứ Ba của nhân loại
mà Châu Á-Thái Bình Dương sẽ là diễn trường quyết định với vai trò quan
trọng hàng đầu của Nhật Bản. Nước Nhật hẳn đang chuẩn bị cho tương lai
hiện thực nầy. Thế nên, buổi sinh hoạt chắc đã hình thành không do những
lý do tùy tiện, ngẫu nhiên.
Sau phần giới thiệu của ban tổ chức gồm có các Giáo
Sư Susumu Fugita, Minoru Iwasaki, và Imai Akio của học viện, các thuyết
trình viên lần lượt trình bày nội dung chủ đề mà ban tổ chức đã thông
báo, chỉ định từ tháng 11 năm 2001. Người thuyết trình xử dụng ngôn ngữ
của quốc gia mình, thông dịch sang Nhật ngữ do những giáo sư, sinh viên
đang giảng dạy, hoặc theo học các học trình tiến sĩ chuyên khoa ngôn ngữ
của quốc gia đó.
Theo chương trình dự định, Bảo Ninh, tác giả Nỗi
Buồn Chiến Tranh (đã được dịch sang Nhật ngữ), và Thân Phận Tình Yêu
(những cuốn sách nói về mất mát, đau thương của tuổi trẻ miền Bắc Việt
Nam trong chiến tranh) phát biểu trước. Nhưng vào tuần lể đầu tiên của
tháng 1, 2002, tác giả nầy thông báo không tham dự buổi hội thảo được vì
lý do "trở ngại giấy tờ hành chánh", nên anh gởi một bản văn đến ban tổ
chức hội thảo. Văn bản nầy được dịch ngay sang tiếng Nhật, và được phổ
biến vào giờ khai mạc. Sự kiện Bảo Ninh vắng mặt sẽ được đề cập lại
trong phần hậu từ của bản tường trình nầy. Người thay thế Bảo Ninh,
Nguyễn Minh Tuấn, nguyên biên tập viên, chuyên bình luận kinh tế của Báo
Ðại Ðoàn Kết, Hà Nội, hiện là giảng viên tiếng Việt của trường từ năm
2000, di dân qua Nhật theo diện gia cảnh (do kết hôn cùng cô Keiko
Watanabé, biên tập viên Báo Yomiuri, nhật báo lớn nhất của Nhật) bắt đầu
buổi hội thảo. Nguyễn Minh Tuấn khởi đầu phần trình bày với tư thế:
"..Năm 1975, tôi mới mười-lăm tuổi, nên dẫu đã khai thêm hai tuổi để
đang ký vào quân đội thì cũng chỉ đi lính được một ngày, và miền Nam đã
được "giải phóng".. Tất cả ký ức về chiến tranh của tôi là những ngày sơ
tán tại miền Bắc Việt Nam để tránh bom Mỹ.. Những hoàn cảnh cực khổ và
dễ sợ." Tuấn có những nhận xét trong phần kết luận: "Hiện tại ở Việt
Nam, hầu hết mọi người hình như không ai muốn nói về chiến tranh. Hằng
năm, vào những ngày lễ lớn như "giải phóng miền Nam 30 tháng Tư", ngày
Quốc Khánh 2 Tháng 9, chỉ những tờ báo nhà nước (Báo Nhân Dân, Quân Ðội
Nhân Dân, Công An..) mới nhắc lại những chiến thắng quân sự. Còn phần
đông dân chúng chỉ chú trọng vào đời sống, lo toan sinh kế vật chất. Và
đời sống xã hội, thị trường tài chính, kinh tế thì bị nạn tham nhũng
hoành hoành, hiện tượng áp bức tràn khắp.. với thành phần nạn nhân đầu
tiên chính là những người đã dựng nên những chiến thắng kể trên." Nguyễn
Minh Tuấn cũng không "ngạc nhiên" về sự kiện Bảo Ninh vắng mặt. Qua
kinh nghiệm làm báo ở Việt Nam, anh đã quá quen với những lý do "trở
ngại giấy tờ hành chánh" nầy, bởi chính bản thân anh cũng đã là nạn nhân
của những lý do tương tự đôi ba phen. Phần phát biểu của Nguyễn Minh
Tuấn được chuyển sang Nhật Ngữ bởi Giáo Sư Odaka Tai, Giảng Viên Khoa
Quan Hệ Quốc Tế, Ðại Học Daitobunka.
Tiếp đến phần trình bày của Người Lính-viết văn.
Trái với người bạn đến từ miền Bắc Việt Nam kia, anh đã chứng kiến, chịu
đựng chiến tranh từ thuở thơ ấu, khi chưa đến tuổi lên mười trong những
vùng gọi là chiến khu (địa phương thuộc quyền kiểm soát của lực lượng
Việt Minh trong giai đoạn chiến tranh 1945-1954) suốt một đời dài cho
tới hôm nay, sắp đến tuổi 60. Anh chịu đựng với chính thân xác mình,
nghe bằng tai, thấy tận mắt, hít thở thấm đẫm hơi người chết, đầm đìa
khắc khoải tiếng kêu thương tâm của vạn, triệu cảnh đời khốn cùng, đau
đớn oan khốc diễn ra qua từng ngày, từng giờ trên suốt giải quê hương -
không chỉ giới hạn nơi những xóm làng, đồng ruộng, thị trấn miền Nam,
nhưng đến tận đầu nguồn biên giới, vùng núi non cực bắc đối diện lãnh
thổ Trung Quốc, hoặc nước Lào ở phía Tây. Tình cảnh anh không phải là
trường hợp đơn lẻ, cá biệt, nhưng là cảnh huống điển hình của toàn dân
tộc khổ nạn. Anh chỉ là một con người sống tận cùng với khổ nạn Việt
Nam. Anh không nói quá lời mà sợ rằng không đủ tiếng lời để nói. Và
không chỉ trong ba mươi phút ấn định, nhưng nếu có thể với ba mươi giờ
vẫn chưa đủ để kể hết toàn cảnh xót xa khắc nghiệt kéo dài hơn nửa thế
kỷ, từ ngày Mặt Trận Việt Minh (do đảng cộng sản Việt Nam ẩn danh lãnh
đạo) khởi đầu cuộc chiến, 19 tháng 12, 1946, đến khi mặc áo lính,
1960-61, cho đến ngày tàn cuộc 30 tháng tư, 1975, tiếp lần vào trại tập
trung sau đó, chuyển ra giam cấm cố ở miền Bắc, 1976, và cho đến tận hôm
nay - Dấu vết, ký ức chiến tranh vẫn còn nguyên độ sắc. Anh sống đủ đời
với của cuộc chiến và hứng trọn hệ quả của nó dẫu hôm nay tạm lìa bỏ
quê hương.
Nầy đây, hãy anh kể lại: "Chỉ trong vòng bốn mươi
tám giờ kể từ khi bắt đầu cuộc hành quân trực thăng vận của ngày 20
tháng 8, 1964, từ phi trường Bến Tranh xuống một ngôi làng Quận Bình
Ðại, tỉnh Kiến Hòa.. Ði sau hai người khinh binh, tôi bước e dè, nhọc
mệt, do tiểu đoàn đã đụng nặng từ lúc xuống trực thăng, thêm việc nhặt
những xác chết của đơn vị bạn, người tôi lao đao trong cảnh trận địa
nguy khốn, mùi hôi tanh từ máu người lẫn hơi bùn xông lên ngây ngây ngật
ngật. Ðến ngày thứ hai thì nỗi thảm hại trong lòng càng thêm độ sắc,
bởi đám tàn binh cộng sản bị thiệt hại của ngày hôm trước nay không
đường thoát thân, phải chui vào đụn rơm, ao bèo lẫn trốn. Tôi kéo ra một
gã du kích.. Chỉ là một thiếu niên mặt mày ngơ ngẫn do quá sợ hãi, mồm
ngậm búng cơm. Tôi nhìn kỹ vào mắt hắn ta, tự hỏi: Ðây là kẻ thù của
mình sao? Ðây là "chiến sĩ giải phóng", đầu mối tai họa, kiệt cùng khổ
nạn Việt Nam? Thêm một ngày nơi trận địa, cảnh tượng bi thảm càng thêm
nặng nề, vây bọc, siết cứng lại.. Tôi đi vào khu vực Nhà Thờ Công Giáo
xã Bình Ðại, ngôi nhà thờ đẹp đẽ đã trở nên đống gạch đổ nát giữa hàng
rừng dừa ngã nghiêng trốc gốc bốc khói xanh. Khi cúi xuống nhặt bàn tay
gãy của tượng thiên thần, tôi khám phá ra năm xác chết. Ðấy là gia đình
người giữ nhà thờ, hai vợ chồng, ba đứa con. Năm người chết từ đâu ngày
hôm trước. Chết không biết do đạn của bên nào? Những xác chết còn "tươi"
do sức nổ gây hơi ép, nét mặt in dấu, vẻ kinh hoàng, chết ở vị thế ngồi
dưới bàn thờ Chúa. Năm xác người được kéo ra nằm trên sân đá lạnh, nắng
dọi xuống gây gây im lặng vàng khô. Nhìn lên hàng rào, chiếc áo tím của
cô con gái đầu lòng bay dật dờ như nỗi oan khuất không nói ra.
Tiếp ngày hôm sau, quân đi vào một khu vườn với căn
nhà đang cháy nghi ngút khói, những cột gỗ cháy đỏ xiêu lệch, nền gạch
vỡ loang lỗ những dấu đạn pháo.. Có người đàn bà chưa đến tuổi ba mươi,
nét mặt đôn hậu, trong sáng của người phụ nữ miền Nam chưa phải chịu đời
khó khăn, vất vả. Chị ngồi ngơ ngẩn trên thềm ngôi nhà đang cháy dỡ.
Tôi đi đến... Không biết đang có đánh nhau hay sao mà chị lại ngồi đây?
Im lặng, chị ta đứng dậy, đưa chiếc giỏ mây vào mặt tôi. Ðộng tác nhanh
gọn như người tập thể dục. Tôi mở gói giấy cột chặt bởi những vòng cao
su... Sợi giây chuyền vàng, đôi bông tai, hai chiếc nhẫn và cái kiềng.
"Vàng, chắc hơn một lượng, con mẹ nầy sợ quá hoá điên rồi. Lấy đi thiếu
úy, không ai thấy, em cũng không nói cho ai biết đâu.. Ê, đi đi.." Người
lính mang máy truyền tin thầm thì bên vai tôi. Anh hươi mũi súng đuổi
chị đàn bà. Người nầy bước đi với nét mặt không cảm giác.
- Không được, vàng của người ta, mình đâu có quyền
lấy. Nầy, chị trở lui đi, tôi trả lại đây". Tôi nói với theo. Người đàn
bà quay lại, cũng với bước chân vô hồn không cảm giác. Nhưng khi đưa tay
đón lấy chiếc giỏ, nét mặt chị ta bỗng nhiên nhăn nhúm lại như đang
phải chịu cơn đau quá độ: Chị buông thỏng hai tay, chiếc giỏ rơi xuống
đất.. Từ từ người đàn bà đưa tay lên hàng nút áo.. những ngón tay xoắn
giữ chặt, toàn thân run bần bật.
- Trời đất ơi!! Tôi kêu lên tiếng nhỏ. Người đàn bà
có thể đã không hiểu lời tôi do từ cách phát âm giọng người miền Trung
pha âm Bắc, nhưng chắc rằng, bởi đã sống trong vùng du kích cộng sản
kiểm soát, chịu sự tuyên truyền dai dẵng dài lâu, nên chị đã nhìn tôi
như "một gã lính hung bạo với áo quần rằn ri, chuyên hiếp dâm, giết
người, cướp giật - như lời "tuyên truyền giáo dục" thường trực tác động
sâu xa của cán bộ chính trị cộng sản. Ðộng tác trả vàng lại cho người
đàn bà cũng không phải là thái độ, hành vi đạo đức lớn, đấy chỉ là việc
làm nhỏ bé, bình thường của một người "có giáo dục tại Miền Nam"- Biết
trọng người và yêu thương đồng loại. Sự hiểu lầm cay đắng của người đàn
bà đồng thời chỉ cho tôi hiểu ra rằng: Tính ác độc tàn nhẫn của chiến
tranh, không chỉ làm cho người trở nên "hai kẻ xa lạ", nhưng là đầu mối,
tai họa thống khổ đối với nhau.
Tôi dẫn người đàn bà ra bến sông qua Mỹ Tho. Chị đi
tới với bước chân vô định.. Lai! Lai! Má đây con ơi!! Một người nào
dưới sông kêu thất thanh, chị quay lại. Aùnh mắt trống không. Vẫn bước
chân vô hồn, chị đi về chỗ thuyền đậu chen chúc.. Má! Má, nhà mình cháy
rồi, cháy hết rồi. Chị vẫn còn trong cơn mê của sợ hãi. Chị vẫn chưa
phục hồi trí nhớ để nhận ra rằng: "Mình đã được gìn giữ, bảo vệ bởi gã
lính trẻ tuổi mà chị vừa hiểu nhầm rằng y đòi lấy của, muốn hiếp dâm".
Tôi nói với những người lính đang đứng nhìn theo người đàn bà: "Nhìn gì
mấy cha, đi lẹ lẹ còn qua phà, về Sài Gòn cho kịp." Về Sàigòn lại đứng
đường, gác chợ cứ như thằng ăn mày, sung sướng gì mà ham về sớm thiếu úy
ơi!!
Ðơn vị xuống phà qua Mỹ Tho để tiếp lên xe về
Sàigòn, nhận nhiệm vụ chống biễu tình, giữ an ninh thủ đô.. Hai gã thiếu
niên đi đầu đoàn người căng biễu ngữ màu vàng: "Cương quyết bảo vệ Ðạo
Pháp". Hai gã khác mang một tấm khác có giòng chữ nguệch ngoạt, "Hoan hô
quân đội".. Ðám đông la ó, những viên đá ném tới.. Những viên đá rơi
trên nón sắt, thân áo giáp, lời chưởi bới ào ào nghiệt ngã:"..đ..má
chúng mầy ăn tiền mỹ-ngụy bao nhiêu hỡ... Ai trả lương cho chúng mầy
giết thầy, hại đạo!!" Những người lính chúng tôi chưa kịp rửa đôi giày
lấm bùn của chiến trận ngày hôm qua, vết cháy ở áo Hạ Sĩ Ty, máu khô còn
đóng trên mặt Binh Nhất Thái, và chính tôi - mùi người chết còn nguyên
nơi miệng, lưỡi.. Tất cả chỉ vừa qua của bốn-mươi tám bốn giờ từ một
vùng đất gọi là Bình Ðại, Tỉnh Kiến Hòa. Bình Ðại- Sài Gòn chỉ khoảng
trăm cây số đường chim bay."
"Câu chuyện kể tiếp tục với cảnh tượng những đứa
trẻ sống sót trong ngôi làng Xã Chánh Khoan, vùng Quận Phù Cát, Tỉnh
Bình Ðịnh. Làng trù phú, vườn củ đậu xanh ngắt, lúa chín vàng, chĩu nặng
bông trái nhưng không bóng người, nhà nhà cửa đóng kín, mùi tử khí âm
âm.. Những đứa bé được tìm thấy từ căn nhà cha mẹ đã chết vì dịch hạch.
Bé kiệt sức vì đói, rét do trời đang ở cuối mùa Ðông 1966.
Câu chuyện tiếp tục với hoạt cảnh xót xa im lặng
nơi vùng đất lửa hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, biên giới cực bắc của
miền Nam đối diện với miền Bắc qua vùng "Phi Quân Sự". Mùa Ðông năm
1967, hai giờ sáng từ Cửa Việt, đơn vị anh, Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù đưa quân
lên hướng Bắc sát sông Bến Hải. Trời sáng dần để thấy lẫn sau giải đụn
cát, gò đất có những "ngôi nhà" nhỏ. Không biết đáng để gọi là "nhà" hay
chăng, vì thật sự chỉ là những hầm hố, trên đó người dân úp lên một mui
thuyền và cả gia đình, những con người ngồi bó gối sát vào nhau. Khi
nhận ra những người lính đang làm việc lục soát, những con người ngồi
trong những căn nhà kia cử động.. Họ bò ra. Vâng, những "con người gọi
là người Việt Nam" kia bò ra bằng hai bàn tay và đầu gối, như một loại
dã nhân tiền sử chưa đứng thẳng được cột sống. Bao đời nay, người đàn bà
ở hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên, bất kể giai cấp xã hội nào, theo phong
tục kín đáo luôn có thói quen luôn mặc áo dài, dù áo dài cũ kỷ, rách
vá, hoặc đang làm việc nặng nhọc, lầm than. Những chiếc áo dài rách tay,
độn vai bởi hàng chục miếng vá, khác màu, khác vải. Nhưng chiếc áo dài
của người đàn bà làng Diêm Hà Thượng ở vùng giới tuyến không còn chức
năng của mục đích, ý niệm ban đầu - Ðể bảo vệ phẩm tính cao quý, thể
hiện phong cách kín đáo của người nữ. Tất cả những danh, tỉnh từ huênh
hoang, tô vẻ mà những kẻ lãnh đạo chiến tranh của cả hai bên hằng nại
đến để chiếm đoạt "lý chính nghĩa" đã trở nên vô dụng, mất ý nghĩa đích
thực, vì vạt áo dài kia không được kéo dài hơn, không đủ lành lặn để
thay thế chiếc quần che phần hạ thể trong động tác bò lết."
Nhưng chiến tranh bên cạnh chuỗi cảnh tượng thê
thiết dằng dặt kể trên vẫn có những hoạt cảnh bi tráng mà mỗi người
lính, người dân miền Nam hằng hiện thực qua từng ngày giờ bão táp với
cách thế chịu đựng vô vàn kỳ lạ tưởng chừng như không thật. Chúng ta hãy
chứng kiến những phận người sống-chết qua lửa đạn.. "Ngày 25 tháng 6,
1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn I quyết định khai
diễn chiến dịch tái chiếm Quảng Trị. Khi đổ quân xuống bãi cát nam Quận
Hải Lăng, trên trục tiến quân hướng khu Nhà Thờ La Vang, mục tiêu cực
tây, vị trí giữ cạnh sườn trông về hướng Trường Sơn, những người lính
thấy những luồng hơi ong óng trên mặt cát kia sao. Trời sáng dần, quân
tiến sâu vào vùng hơi bốc lên kia thì họ khám phá ra.. Luồng khí bốc lên
ấy là tàn hơi của một loại lửa đặc biệt. Lửa được cấu tạo không chỉ do
vật chất bị đốt cháy như gỗ, sắt, thép của các loại súng đạn, xe cộ, vật
dụng chiến tranh; lửa còn được tăng cường nung nấu bởi áo quần, quang
gánh, giày dép...Và cuối cùng, lửa được bền bỉ gìn giữ bởi một chất liệu
bất ngờ, phí phạm và thực sự không cần thiết - Những tế bào hữu cơ của
thân thể người bị xé rách, vùi dập, thiêu đốt cháy âm ỉ làm chảy sênh
sếâch mặt nhựa đường. Loại lửa thuần túy "nhân tạo" nầy đã tồn tại từ
bao ngày qua - từ ngày 29 tháng Tư, 1972, thời điểm những sư đoàn Miền
Bắc tấn công, cưỡng chiếm thị xã Quảng Trị, phục kích đoàn người di tản,
chạy loạn qua vùng đất 9 cây số từ La Vang xuống Cầu Câu Nhi Phường,
nam Quảng Trị. Con người nghe tiếng nổ cấp kỳ và thân người tung xé bay
bay lên với lửa.. Họ "biết rõ" như thế và chỉ biết giương tròng mắt ngó
trân..
Lửa! Lửa! Lửa!
Lửa dậy từ Hải Lăng
Giăng giăng triền cát trắng
Lửa phần phật nung rền
Ðỏ cọng cỏ đồi sim.
Bao xác người cháy đen
Dọc dài Ðường số I
Xác mẹ chồng xác con
Chập chờn màu lửa nghẹn
Dòng "Ðá Chảy Mồ Hôi"
Sôi sục hơi tử khí
Ðồi"Thánh Mẹ Sầu Bi"
Nhầy nhầy thây kinh dị.
Thây thê thảm quắp co
Ðặc quánh vũng máu đỏ
Ðất sềnh sệch thịt người
Lặng nở trời nắng to...
Những cái chết kia không chỉ một lần, vì cảnh tượng
thương tâm kia không chỉ riêng cho ngày 29 tháng 4, mà được lập đi lập
lại suốt gần hai tháng qua với đạn, bom cực độ của cả hai bên, bên nầy
lẫn bên kia sông Bến Hải để tạo nên một địa ngục lặng im dưới trời sáng
nắng, trên bãi cát lây lất màu máu cặn. Nhưng loại lửa nhân tạo kia lại
không đủ độ nóng cần thiết để thiêu cháy toàn diện, nên những xác người
dù qua bao ngày chết lâu dài vẫn còn nguyên vẹn nét kinh hoàng của lần
bức tử, dẫu chỉ là khối xương sọ nằm trơ bên hố bom kho cạn nước, sênh
sếch váng lớp thịt xương, dạng thây người chưa hoàn toàn tiêu hủy.
... Kẹt trong xích xe tăng
Xác thân ai rây máu
Trời ơi đau Hải Lăng
Hồn cào sôi bi phẫn.
Nhưng từ sâu khổ nạn với cảnh chết tận cùng kia,
bỗng sáng chói điều kỳ diệu như tia chớp của giữa đêm đen giông bão. Khi
những người lính vượt tuyến xuất phát, đội pháo vượt qua vũng lửa Hải
Lăng, Giáp Hậu, La Vang thì trên đồng cháy xuất hiện những bóng người
thấp thoáng xiêu lệch.. Họ chạy ngã nghiêng, chập choạng như những bóng
ma nhập tràng vừa dựng dậy từ đám xác chết. Và như được hồi sinh bởi một
năng lực mầu nhiệm, đám "ma người" đồng thất thanh kêu lớn... Lính tới!
Lính tới! Lính cộng hoà tới! Và chắc rằng chính tiếng kêu trong đáy
thẵm chết chóc của những người dân nầy là tin cậy trao gởi cổ vũ mãnh
liệt nhất để những người lính dựng nên kỳ tích của trận chiến Mùa Hè
1972 ở mặt trận Quảng Trị trong ngày 14 Tháng 9- Khi những chiến binh
của các Tiểu Ðoàn 1 và 6 TQLC đồng khép chặt, diệt gọn ổ kháng cự cuối
cùng nơi Cổ Thành Ðinh Công Tráng, dựng NGỌN CỜ VÀNG lúc đúng Ngọ- Giờ
mặt trời lên thiên đỉnh chiếu ánh sáng rực rỡ uy nghi xuống Ba Vạch Ðỏ
thắm tươi thêm sắc máu của những người hằng chết cho một điều không bao
giờ nói nên lời: Con người luôn sẵn chết vì TỰ DO - Những người LÍNH vô
danh, những người DÂN không ai biết đến - Dân và Lính Miền Nam. Của Quốc
Gia tên gọi VIỆT NAM CỘNG HÒA."
Câu chuyện vốn còn rất dài, nhưng bởi thời lượng
không đủ, anh chấm dứt phần trình bày với kết luận: "Thượng đế ban cho
con người sự sống, và kế hoạch hóa tình cảnh, thời điểm từ giả cuộc đời
trần thế- Nhưng con người trong chuỗi sinh tồn kia đã hiện thực điều bi
thiết vĩ đại của mình - Người quyết định lần chết cho chính bản thân.
Người trao gởi lại sau cái chết xác thân một trị giá vinh diệu. Người
Việt Nam đã hiện thực điều cao cả kia một cách tự nhiên trong suốt đêm
đen bất hạnh dài theo thế kỷ, giữa vũng lửa chiến tranh mà toàn dân tộc
đang gánh chịu một cách khắc kỷ- Xem như một sự cùng đành. Chúng tôi
không nói điều tán tụng với chữ nghĩa phù phiếm, không nội dung- Chúng
tôi xác tín với giá máu của mỗi người anh em đã, đang hằng hằng lâu dài
gánh chịu... Không chỉ là những người lính nơi trận điạ, mà là hằng loạt
tướng lãnh giữ chức tư lệnh đại đơn vị, hoặc sĩ quan cấp tá cao cấp:
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Lê
Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Hữu Thông, Trung Tá
Cảnh Sát Nguyễn Văn Long... Người không chỉ chết một mình, mà với toàn
gia đình cùng một lần quyết tử- Chị Nguyễn Thị Thàng, vợ một nghĩa quân
chết với chồng và đàn con nơi chiếc đồn cô quạnh ở vùng IV; Thiếu Tá
Vĩnh, bào huynh của gia đình niên trưởng Hà Thượng Nhân (Trung Tá Phạm
Xuân Ninh, Chủ Nhiệm Báo Tiền Tuyến) chết cùng với cả nhà gồm ba thế hệ:
ông, cha, cháu; những người lính Thủy Quân Lục Chiến đồng tự sát nơi
Bãi Mỹ Khê, Ðà Nẵng cuối tháng 3, 1975; Trung đội Nhảy Dù của Huỳnh Văn
Thái cùng nỗ chung một lần lựu đạn sáng 30 tháng Tư. Ánh chớp thanh
quang của anh hồn bao người trung liệt kia hẳn đã rung mờ nhật, nguyệt
hiện thực lần Núi Sông cùng khóc với Con Người. Và Người cùng một lần
sống mãi với Quê Hương." 1
Phần trình bày của anh đã được Giáo Sư Nguyễn Ngọc
Bích, Giám Ðốc Ðài Phát Thanh Á Châu Tự Do (RFA), Washington DC chuyển
sang Anh Ngữ, bản dịch quay ronéo để sẵn nơi cửa phòng hội, cùng với văn
bản tiếng Việt, được tóm lược qua Nhật Ngữ. Giáo Sư Nhật Văn, Lê Văn
Cừ, bạn cùng lớp Trần Viết Ðại Hưng (San José, CA) cựu học sinh Hàm
Nghi, Huế, người đã thấm hiểu, và chịu cơn đau của sự kiện lực lượng
cộng sản tàn sát người Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968; lần chạy loạn
oan khốc của ngày 29 tháng 4, 1972 nơi 9 cây số "Ðại Lộ Kinh Hoàng",
phiên dịch cho anh theo kỹ thuật phiên dịch nghị trường qua phối hợp với
anh từ đêm đầu tiên đến Nhật. Người Lính-viết văn cũng chuẩn bị sẵn ấn
bản tiếng Anh "The Stories Must Be Told", cuốn sách được huynh đệ, bằng
hữu khắp nơi giúp hoàn thành trong một thời gian kỹ lục trước ngày đi.
Tiếp theo, Cô Ku Sujeong, Hàn Quốc (tên Mỹ Suzane;
tên Việt, Trâm), sinh viên học trình tiến sĩ sử học trình bày chủ điểm,
"Những đơn vị Ðại Hàn có mặt trong chiến tranh Việt Nam" (Các Sư Ðoàn Bộ
Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Thanh Long, Bạch Mã, Bạch Hổ chịu trách
nhiệm vùng duyên hải Miền Trung từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận,
1965-1973). Cô Sujeong được một sinh viên người Ðại Hàn hiện theo học
tại học viện giúp phiên dịch.
Chu Kiên, người Trung Hoa trình bày "Chiến tranh
Việt Nam đối với Mao Trạch Ðông". Với những chứng liệu lịch sử cận đại
còn rất mới, diễn giả người Hoa nầy minh xác ảnh hưởng lý thuyết, lẫn
kinh nghiệm thực tiển của Mao Trạch động đối với những quyết định chiến
lược, cũng như chiến thuật của giới lãnh đạo miền Bắc, đặc biệt đối với
Hồ Chí Minh. Diễn giả nầy trình bày trực tiếp bằng Nhật Ngữ.
Và cuối cùng, Ado Makoto, thủ lãnh của phong trào
phản chiến Nhật trong suốt nhiều thập niên qua những vận động đòi quân
đội Mỹ rút khỏi Okinawa, phản đối Hiệp Ước An Ninh Nhật-Mỹ, trình bày
quan điểm "Nhật Bản và Phong Trào chống Chiến Tranh" do ông và các nhóm
bạn đồng quan điểm lãnh đạo, vận động, thực hiện.
Sau lần trình bày của Ông Ado Makoto, buổi hội thảo
chuyển qua phần thứ hai: Ðối thoại giữa cử tọa và các diễn giả, hoặc
phần bổ túc giữa những người thuyết trình. Khoảng bốn trăm người tham
dự, phần đông thuộc lớp sinh viên trẻ tuổi (đang theo học các phân khoa
chính trị, lịch sử của trường) hoặc những người lớn tuổi có lòng quan
tâm đến thời cuộc, sinh hoạt chính trị. Ðáng kể nhất là các ký giả,
phóng viên Hara, Tabata, Oshima phụ trách trang tiếng Nhật của tờ
Mê-Kông do Hồ Thông Minh chủ biên. Các anh Hà Ngọc Giao, Lê Văn Xe, Trần
Kiến Võ, chị Hà Anh Võ, và những thanh niên, thiếu nữ người Việt đến
Nhật từ lúc tuổi ấu, thiếu, ở những nơi rất xa Tokyo (di chuyển ở Nhật
luôn là một vấn đề khó khăn vì khoảng cách quá xa, dân số quá lớn. Tokyo
là một trong những thành phố đông dân nhất của thế giới với 12 triệu
người) đã đến tham dự buổi nói chuyện. Tuy nhân số ít nhưng các anh,
chị, các cháu trẻ tuổi đã theo dõi với tất cả tấm lòng của những người
Việt hằng thấm đau cảnh khổ. Các anh Lê Văn Xê, Trần Kiến Võ thuộc các
khoá 19, 25 Trường Võ Bị Ðà Lạt, anh Hà Ngọc Giao là sĩ quan Hải Quân
QLVNCH.
Sự Thật Ở Đâu?
(Nếu lần phát biểu được ban tổ chức điều hành theo
thứ tự kể trên, sang đến phần đối thoại thì thực hiện theo chiều ngược
lại. Và Bản Tường Trình chỉ ghi lại những đối thoại của hai diễn giả
người Việt, và những nội dung có liên hệ trực tiếp đến người và việc từ,
của Việt Nam.)
Ông Ado với tinh thần phản chiến cực đoan, đã nhận
định: "Chiến cuộc Việt Nam là biểu hiện nhất quán của chính sách "thực
dân kiểu mới" được Mỹ hóa (Americanized, Ado lập lại nhiều lần) với
những phương tiện quân sự khổng lồ, sức mạnh siêu đẳng của nền kinh tế,
tài chánh của chủ nghĩa tư bản." Do quan niệm một chiều nầy được diễn
đạt bằng tư thế trấn áp cơ hữu của diễn giả qua cách phát âm Nhật ngữ
mạnh mẽ, với dẫn chứng sự kiện quân lực Mỹ đã từng tham chiến ở Ðại Hàn,
trấn đóng tại Nhật trước khi có mặt ở Việt Nam, nên từ phía cử tọa đã
có thắc mắc với cô Sujeong (Ðại Hàn): "Phải chăng lần tham dự của quân
đội Ðại Hàn có nguyên do từ sự đe dọa của Bắc Hàn?" Có thể do cô đã
không chuẩn bị cho câu hỏi thắc mắc nầy (vì chỉ đặt trọng tâm vào hoạt
động quân sự của lực lượng Ðại Hàn tại Nam Việt Nam), nên Người
Lính-viết văn đã xin phép được phép trả lời hộ, anh nói: "Chúng tôi đã
quả đã dự tri cho câu hỏi nầy nên đem sẵn theo đây một dĩa CD có 30 hình
ảnh về chiến tranh không phải chỉ riêng với hoàn cảnh VN mà còn của
nhiều vùng đất, và những sắc dân khác. Một của 30 bức ảnh nầy là cảnh
tượng người Bắc Hàn vượt sông Naktong chạy về phía nam vĩ tuyến 38 trong
chiến tranh 1950-1953 (cũng được trích đăng trong phụ bản của The
Stories Must Be Told). Hình ảnh nầy đủ để chứng minh sự kiện đe dọa của
lực lượng quân sự, chính sách hà khắc chính trị của phe cộng sản không
chỉ xảy ra với chiến tranh Việt Nam (mà chỉ do nguyên cớ là tham dự của
người Mỹ như ôngAdo vừa kể ra)- Nhưng đe dọa mang tính danh cộng sản đã
có và hằng tác động lên toàn cầu, nên đã xẩy ra cảnh tượng như vừa kể
trên trong nam 1950ở Ðại Hàn; sự kiện người lính Ðông Ðức đào thoát qua
bức tường Bá Linh năm 1960; và hiện tượng vạn, triệu người Việt chấp
nhận cái chết để thoát khỏi tay người cộng sản ở Việt Nam.. Di cư, vượt
tuyến khỏi miền Bắc sau tháng 10 năm 1954; chạy loạn Mậu Thân 1968; chạy
tỵ nạn năm 1972; di tản tháng Ba, Tư năm 1975, và cuối cùng đồng loạt
(cả hai miền Bắc, Nam) vượt biên suốt hơn một thập niên sau 30 tháng Tư,
1975. Tóm lại, không những chỉ có đe dọa của Bắc hàn đối với Ðại Hàn,
của Ðông Ðức đối với Tây Ðức, của Bắc đối với Nam Việt Nam- Nhưng đe dọa
cộng sản là thực tiển của tình hình chính trị-quân sự toàn cầu trong
suốt nửa thế kỷ vừa qua. Tóm lại, chiến tranh Việt Nam là chiến tranh
hai miền Bắc-Nam, giữa chế độ cộng sản Miền Bắc và chế độ cộng hòa, dân
chủ Miền Nam - Chiến tranh nầy khởi đi rất lâu trước khi chính phủ Mỹ đổ
quân vào đến Việt Nam (mùa Hè 1965 tại bãi Ðà Nẵng)- Ít nhất cũng chính
thức từ 19 tháng 12, 1960, ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
theo nghị quyết của Ðại Hội 3 Trung Ương Ðảng Lao Ðộng (cộng sản), ngày
10 tháng 6, 1960 tại Hà Nội. Và chiến tranh ấy vẫn kéo dài sau khi quân
nhân Mỹ hoàn toàn rút khỏi Miền Nam (27 tháng 3, 1975), ngoại trừ một
văn phòng tùy viên quân lực (DAO) theo điều khoản của Hiệp Ðịnh Paris.
Có một cán binh bộ đội nào đã giao tranh với đơn vị chiến đấu Mỹ trong
khoản thời gian trước, sau thời đoạn 1965-1973 ngắn ngủi của cuộc chiến
tưởng chừng bất tận đau thương kia?
Một người khác (mà anh đoán chừng phải là người am
hiểu rõ tình hình, văn hóa Việt do chữ viết (Việt ngữ) rất đều và đẹp)
đặt cho anh câu hỏi: 1/ Phải chăng ở Miền nam có chánh sách cưỡng ép
người vào lính? 2/Ðời sống vật chất của cấp sĩ quan rất thoải mái bởi có
mức lương cao. 3/Chính sách giam giữ của chính quyền miền Nam đối với
tù binh bộ đội cộng sản? Anh có trả lời như sau: "Trong một nước có
chiến tranh thường trực, lẽ tất nhiên phải có chính sách tổng động viên
nhân, vật lực cho cuộc chiến. Tuy nhiên như trường hợp anh, tự nguyện
vào lính năm 17 tuổi đã chứng tỏ, miền Nam không thiếu những thanh niên
tình nguyện vào quân ngũ, (không những chỉ tình nguyện vào Trường Võ Bị
mà còn phải thi tuyển gắt gao). Hơn thế nữa, đơn vị anh, binh chủng nhẩy
dù chỉ nhận người tình nguyện - từ cấp binh sĩ đến hàng tướng lãnh- và
được gia nhập vào binh chủng nầy là một vinh dự lớn, mà người sĩ quan
khi tốt nghiệp trường võ bị phải đậu thứ hạng cao, hoặc thủ khoa khóa
học mới có quyền ưu tiên chọn lựa. Tuy nhiên, hoàn toàn không phải phải
vì đồng lương mà người thanh niên vào lính- bởi đây là một nghề nghiệp
có mức sống thấp nhất của xã hội miền nam- Số tiền lương của cấp sĩ quan
chỉ ngang chừng 10 Ðô-la Mỹ, chứ đừng nói binh sĩ, hạ sĩ quan. Anh dẫn
chứng với lời tự sự cá nhân anh trong mục tiểu sử tác giả của cuốn
"Những Chuyện Cần Ðược Kể Lại: Chưa hề có một tài sản nào lớn hơn 10
đô-la Mỹ, tài sản lớn nhất có được là số tiền Bộ Xã Hội Mỹ cấp phát vào
ngày nhập cư đất Mỹ năm 1993". Anh cũng không quên kể lại câu nói của
người đàn anh thương mến, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Tiểu Ðoàn Trưởng
Tiểu Ðoàn 2 TQLC: "Tao mấy năm làm tiểu đoàn trưởng chưa hề cầm số tiền
lớn hơn 100.000 đồng (thời giá năm 1970, khoảng 60 đô-la Mỹ)" Chương
"Người Lính Không Hề Chết"- NCCDKL (sđd)". Về câu hỏi thứ ba, tương tự
như vấn nạn đối với cô Sujoeng về vấn đề "Mối đe dọa từ Bắc Hàn", lần
nầy anh cũng chuẩn bị đủ đối với tình thế (dự liệu) qua chương "Tù Binh,
Anh đi về đâu?" của cuốn sách viết từ 1974, "Tù Binh và Hòa Bình".
Trong chương nầy anh đã viết nên lời: "Ở trại giam Phú Quốc do quân cảnh
VNCH quản trị, người tù cộng sản được bảo vệ bởi những quy luật trại
giam theo Công Ước Quốc Tế Genève về tù binh (cố vấn Mỹ của đơn vị quân
cảnh lại là người giám sát nghiêm chỉnh việc thi hành nầy). Và trái lại,
mối đe dọa nguy khốn đến từ những "đồng chí" của họ - Những cán bộ
chính trị của tập thể tù binh cộng sản. Và khi ra khỏi nhà tù, trả về
phía cộng sản, họ tiếp tục bị đày ải bởi nhà cầm quyền Miền Bắc bởi tội
danh "đã để phía ngụy quân bắt cầm tù". Anh đã không dự tri điều hoang
tưởng- Năm 1976, khi chuyển ra giam giữ ở đất Bắc, anh gặp lại đủ những
người mà anh đã trao trả về phía cộng sản trong những tháng đầu năm 1973
tại địa điểm trao trả bên kia sông Thạch Hãn (Quảng Trị)".
Nhưng Nguyễn Minh Tuấn đã không tin về câu trả lời
trên, anh cho rằng, sự hà khắc, độc ác của chế độ giam giữ của VNCH là
một điều không thể chối cải được, vì sự kiện nầy đã bị chính các nhân
vật "hòa bình" ở Miền Nam tố cáo. Vì thời giờ không cho phép, hơn nữa
vần đề đã đẩy qua vùng chính trị mà nếu muốn đề cập thì phải dẫn chứng
với nhiều người, việc khác (thành phần thứ ba, các phong trào hòa bình ở
Miền Nam, những nhân vật phản chiến "ngụy danh" mà sau 1975 đã hoàn
toàn lộ mặt.. Những Lý Chánh Trung, Nguyễn Thị Thanh Vân (vợ Ngô Bá
Thành), Huỳnh Tấn Nẫm..) Và anh cũng đã dự tri chính xác về những con
người nầy cùng cái gọi là "cuộc cách mạng gọi là giải phóng miền Nam"
qua khẳng định đã viết thành lời từ 30 năm trước: "Rồi đây trận chiến
cuối cùng sẽ là giữa chúng tôi với những sư đoàn chính quy cộng sản Bắc
Việt.. Lá cờ ba mầu của mặt trận giải phóng (Miền Nam), cùng những kẻ
múa rối ở Miền Nam sẽ bị vất đi như một thứ phế phẩm!! (TB& HB,
Trang 411-417, ấn bản 1974, Hiện Ðại Sàigòn)". Anh cũng không trả lời
câu hỏi có tính cách "chiến thuật nầy" là cốt dùng thì giờ còn lại để
trả lời về câu hỏi mấu chốt: "Ông nghĩ thế nào về sự kiện Hà Nội bị Mỹ
dội bom". Câu hỏi nầy do một thính giả nêu ra nhưng Nguyễn Minh Tuấn
chuyển "gánh nặng" qua cho anh. Không chút bối rối và ngạc nhiên, anh
trả lời: "Trước tiên tôi cực lực phản đối việc Mỹ ném bom Hà Nội, vì một
lẽ rất giản dị: Không ai cam tâm muốn đất nước mình bị tàn phá. Mà cũng
không hẳn như thế, tất cả những con người có lương tri, lương năng
không ai hoan nghênh những vụ tàn phá, tấn công bằng bom đạn. Nhưng nói
đi thì cũng phải nói lại, trong dĩa CD sẵn mang theo hôm nay (nhưng rất
tiếc vì lý do kỹ thuật, CD nầy đã không phóng chiếu được. Anh đưa CD lên
thêm một lần) có hình ảnh phố Khâm Thiên, khu dân cư Hà Nội bị dội bom
trong chiến dịch dội bom 12 ngày (Tháng 12, 1972) của chính quyền Mỹ.
Nhưng nếu đã kết án vụ việc phi cơ Mỹ ném bom ở Khâm Thiên thì cũng phải
kết án những vụ pháo kích của lực lượng cộng sản vào những thành phố,
khu dân cư ở Miền Nam. Trong dĩa CD nầy cũng như trong những cuốn sách
tôi trình bày trước quý vị hôm nay (có những ảnh do chính bản thân hoặc
các phóng viên chiến trường bạn hữu tôi chụp trong trận chiến mùa Hè
1972), những ảnh nầy trình bày đủ cảnh tượng thường dân bị tàn sát trên 9
cây số "Ðại Lộ Kinh Hoàng" nam Quảng Trị, ngày 29 tháng 4, 1972; thị xã
An Lộc bị san thành bình địa, dân chạy loạn về Chơn Thành, Bình Dương
bị tàn sát bởi cuộc pháo kích tập trung đêm 12 tháng 4, 1972. Trường
Tiểu Học Cai Lậy, Ðịnh Tường (vùng đồng bằng Cửu Long) ngày 9 tháng 3,
1974 gây thương vong 43 trẻ nhỏ, bị thương 70 em khác.. Những vụ giết
người không cần thiết và cực độ vô nghĩa nầy phải một lần bị lên án cùng
lần với việc phố Khâm Thiên Hà Nội bị dội bom. Và trở lại vấn đề dội
bom thì thật ra mà nói- ba phần tư số bom Mỹ với chất độc khai quang là
dội xuống Miền Nam- Thế nên, nhân dân Miền Nam mới là người có đủ toàn
quyền trước hết để nói lên vấn nạn đau xót nầy. Phải, chính chúng tôi -
Người Miền Nam mới là nạn nhân đầu tiên và hứng chịu phần nặng nề nhất
của cuộc chiến. Hai trăm ngàn dân, lính trong lần di tản Tây Nguyên khởi
từ 15 tháng Ba, 1975 kết thúc ngày 28 cùng tháng, chỉ còn khoảng 60.000
con người đếm được tại trại tiếp cư đèo Rù Rì, Nha Trang, không có một
đơn vị quân đội nào còn được khả năng chiến đấu khi về đến vùng đồng
bằng. Biết bao nhiêu người đã chết trong chiến tranh? Chỉ biết sau 1975,
trong hai triệu người Nam, Bắc vượt biên ra khỏi nước đã có 600.000
ngàn người bỏ mạng trên biển đông, nơi rừng già biên giới Việt-
Miên-Thái (thống kê của Ủy Ban Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc). Biết bao nhiêu
người Việt Nam đã chết trong chiến tranh? Biết bao người Việt Nam đã
chết sau thống nhất, trong hòa bình? Anh hỏi mình, hỏi cử tọa, hỏi người
bạn Nguyễn Minh Tuấn đến từ miền Bắc, hỏi người phản chiến Ado Makoto..
Người nào đã chiến thắng, kẻ nào đã thua trận? Phải chăng chỉ Dân Tộc
Việt Nam chịu nguồn uất hận dằng dặt khôn nguôi!!
Còn có những câu hỏi về việc Tướng Nguyễn Ngọc Loan
bắn tên đặc công ở Chợ Lớn (1968); thái độ đối với kẻ khủng bố hiện
tại? Nhưng anh có thể nói gì thêm và nói gì hơn nữa (dẫu cũng đã tiên
liệu cho những vấn đề nầy) ngoài mối đau thương quá đỗi lớn lao còn rất
mới sau 26 năm gọi là hòa bình ở Việt Nam.
Hậu Từ
Tương
tự như những lần ở sông Thạch Hãn, Quảng Trị sau những cuộc trao trả tù
binh đầu năm 1973, mỗi buổi chiều trở về bờ sông phía nam, phần đất
kiểm soát của Thủy Quân Lục Chiến VNCH, qua thành phố đổ nát, hoang tàn,
hậu quả của lần tàn phá cực độ trong suốt năm 1972.. Anh có cảm giác
ngậm ngùi, khắc khoải: Rồi đây sẽ chẳng đi đến đâu, tất cả chỉ là vô
ích, những nỗ lực của bản thân, bằng hữu, chiến hữu trong cuộc chiến
nhiều thiên lệch, không cân sức, bị xuyên tạc, ngộ nhận, mạ lỵ từ nhiều
phía- Cuộc chiến đấu tự tồn của dân và lính Miền Nam từ lâu nào đã mấy
ai hay, cho dù bậc đại trí, đạo hạnh như Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc,
Giáo Hoàng Vatican..?! Nay cũng thế, dẫu anh đã nói đến tận cùng, đã
chuẩn bị thật chu đáo, đã diễn dịch vô vàn từ sự thật, nhưng làm sao đẩy
được khối đả tảng "chiến tranh Việt Nam được Mỹ hóa trong tất cả mọi
tình thế, mọi điều kiện" ra khỏi quan niệm cố định của những người phản
chiến Nhật như Ado Makoto? Và dẫu cho anh thật lòng tin tưởng về tính
trong sáng, trung trực của thế hệ người trẻ tuổi (điển hình qua số đông
của phòng hội), mà thái độ nghiêm túc, cẩn mật của họ trong suốt buổi
hội thảo đã làm anh cảm khích- nhưng phần đông những người nầy đều nhận
quá trình huấn luyện, sưu khảo từ học trình đại học Việt Nam hiện tại -
mà lý thuyết xã hội chủ nghĩa vẫn là quan điểm chủ đạo của tất cả mọi
công trình văn hóa, văn nghệ, giáo dục, kể cả kinh tế. Từ "thực tế- thực
tế gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" nầy anh rơi vào một tình
trạng não nề với câu hỏi nhói đau: "Nước Nhật chỉ sau mười lăm năm
(1945-1960), từ hoang tàn đổ nát do hai trái bom nguyên tử; danh dự,
kiêu hãnh dân tộc, quân đội bị xúc phạm (Nhật Hoàng Hirohito tuyên cáo
đầu hàng, Mỹ thiết lập tòa án Tokyo xử tội phạm chiến tranh); cảnh cùng
khổ, sa đọa xã hội hiện ra cùng khắp (đến nổi cảnh sát phải dùng đến
biện pháp truy quét mới dọn sạch được cảnh sống lầm than của dân bụi đời
ở khu nhà ga Ueno, Tokyo những năm sau 1945)- Nhưng chỉ đến thập niên
60 Nhật đã là một cường quốc kinh tế, và hiện nay là đối thủ không khoan
nhượng của Mỹ trong tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, tài chánh, sản xuất.
Phép mầu nầy đến bao giờ xuất hiện ở Việt Nam - Ðất nước đang ở đầu
thiên niên kỷ thứ ba với chiến lược kinh tế "nhất quyết tiến lên xã hội
chủ nghĩa dựa trên cơ sở nông nghiệp và công nghiệp nhẹ". Hình thái phát
triển xã hội (và chỉ thực hiện được) do dịch vụ tiêu thụ và tệ nạn bàn
giấy thông qua thủ tục hối lộ. Hơn một phần tư thế kỷ kể từ ngày thống
nhất đất nước số phận người dân vẫn bị chi phối và quyết định bởi Bộ
Hình Luật An Ninh Tổ Quốc- biến thái của nghị quyết An Ninh Tổ Quốc từ
đại hội III năm 1960 của trung ương đảng chuẩn bị lần xâm chiếm Miền Nam
bằng vũ lực - Công An Bộ Nội Vụ toàn quyền bắt và kết án người bằng
biện pháp tập trung cải tạo!! Linh Mục Nguyễn Văn Lý (bạn đồng hành
chung chiếc cùm với người viết trong lần chuyển trại 8 tháng 1, 1988 từ
Thanh Cẩm, Thanh Hóa ra trại Ba Sao, Hà Nam Ninh) nay đang chịu thêm một
án tù thứ ba trong đời cũng chỉ vì lý do "vi phạm an ninh tổ quốc".
Trong bữa cơm từ giả tại nhà Nguyễn Minh Tuấn, anh
có kể cho chúng tôi nghe về nỗ lực của báo giới Vệt Nam hiện tại.. Báo
Ðại Ðoàn Kết của anh đã có công đầu trong vụ án xét xử ông Nguyễn An
Trung, một Việt kiều mang tiền về nước để phát triển ngành giao thông,
nhưng bị kết án tù vì tội khai gian thuế, chịu án tù, tịch thu tài sản
và phạt vạ 1 triệu đô-la Mỹ; hoặc báo đã làm sáng tỏ vụ công an bắn chết
một thanh niên trên cầu Chương Dương Hà Nội, cướp tiền của người nầy,
xong vu oan nạn nhân là kẻ cướp giật. Cha nạn nhân đưa đơn thưa kiện
khắp nơi các cấp nhưng đều bị chìm lấp vì hồ sơ (giả tạo) của công an đã
hoàn tất. Nỗi oan uổng của người chết chỉ được sáng tỏ khi báo Ðại Ðoàn
Kết (qua đều tra của Nguyễn Minh Tuấn) đưa nội vụ ra ánh sáng. Hoặc vụ
một chị đàn bà sắc tộc Tày bị vu oan đã thiếu nợ 200.000 đồng (khoản
chừng 15 Mỹ Kim), bị kết án 18 tháng tù trong tình trạng ung thu bướu
đang giai đoạn nguy kịch!! Tuấn kết luận: "Báo chí phải biết tránh né,
muốn viết phải nhắm vào, đánh tỉa từng cá nhân- nhưng đừng bao giờ đụng
đến chính sách và trung ương đảng!" Anh biết người bạn nói điều thật
lòng, và can đảm thực hiện nghĩa vụ báo chí - Nhưng anh nghĩ thầm: "Nếu
là một nước có kỹ cương người dân có bao giờ lâm cảnh nguy biến đến như
thế? Và anh biết có hỏi người bạn chăng nữa thì mối xót xa nầy vẫn giữ
nguyên độ sắc nên anh đành im lặng. Và anh chợt hiểu ra: Tại sao Bảo
Ninh không được tham dự buổi hội thảo - Hẳn những người cầm quyền ở Việt
Nam e ngại về tiếng nói của một người viết văn trung trực.
Từ nhà Tuấn, anh cùng Ðỗ T. Minh và Ng. Thủy đi bộ
ra đường đón taxi, ngang qua cơ sở chính của Hãng Sony, nhìn lên, chỉ là
một tấm bảng đơn giản ghi tên hiệu của cơ quan nắm giữ quyền lực, khả
năng kinh tế - kỹ thuật toàn cầu. Anh hỏi thầm thêm một lần.. Biết đến
bao giờ ở Việt Nam. Về đến Mỹ, tin tức đầu tiên anh đọc được: "Những
người cầm quyền ở Hà Nội đang chuẩn bị thông qua đạo luật về biên giới
và lãnh hải ký với Bắc Kinh trong những năm 1999 và 2000- Theo đó Việt
Nam chỉ còn 53, 23% vùng biển chủ quyền và Trung Quốc chiếm 46, 77%. Và
công an thành phố Sàigòn tìm cách phá đám tang Hòa Thượng Thích Ðức
Nhuận.
Anh chờ đợi gì nơi những người cầm quyền Hà Nội,
hôm nay đang lập lại lần đê nhục của Mạc Ðăng Dung ở thế kỷ 16, nhưng
với lý do thậm tệ đốn hèn hơn - chỉ để củng cố vị thế chính trị của cá
nhân và tổ chức của họ.
Hóa ra, những kẻ có tội luôn ở tình trạng sợ hãi. Họ sợ Anh Linh Con Người dẫu đã chết và quỳ lạy loại xác ma hủy hoại hư thối.
Phan Nhật Nam
17 tháng 1, 2002.
Ðể nhớ ngày ký kết "Hiệp Ðịnh Tái Lập Hòa Bình ở Việt Nam" hai-mươi chín năm trước tại Paris.
--------------------------------
1 Bản tường trình đầy đủ "Nỗi Ðau Ðầy Hơn Trí Nhớ" đã được chuyển sang Anh ngữ trong "The Stories Must Be Told".
No comments:
Post a Comment