Hai
gã thiếu niên đi hàng đầu căng biểu ngữ: "Hoan hô Quân đội". Hai gã
khác mang một biểu ngữ màu vàng: "Cương quyết bảo vệ Đạo pháp". Đám đông
ước khỏang hơn trăm người, phần đông là thanh thiếu niên dưới hai mươi
tuổi một số ít đàn bà lớn tuổi, thấp thoáng vài chiếc áo vàng. Trung đội
tôi dàn hàng ngang ở ngã ba Trần Quốc Toản - Cao Thắng, đợi đám đông
tiến tới. Cách chúng tôi khỏang trăm thước, đám biểu tình dừng lại, một
tên trẻ tuổi tách ra khỏi đám đông, tay cầm một lá cờ Phật Giáo tiến về
phía chúng tôi, gã bắt đầu nói... Tôi không nghe rõ, chỉ loáng thoáng
mấy danh từ: Độc tài, đạo pháp, dân chủ hỗn độn va chạm nhau... Xong, gã
nâng cao lá cờ... Đám đông hoan hô ầm ĩ, im lặng trơ trẽn đè nặng. Gã
thiếu niên nói tiếp thêm một hồi. Một chiếc áo vàng từ trong đám đông
tách ra đến đứng cạnh. Tay ông tu sĩ có chiếc cờ nhỏ, y nâng cao, hai
tay dang rộng hình chữ V, kiểu võ sĩ lên đài chào khán gỉa... Tôi không
nghe được lời ông ta nói gì, vì chú ý đến đám đông. Bọn thanh niên biểu
tình phần đông mang dép, quần ống hẹp, áo bỏ ngoài, hai ba gã đứng hàng
đầu tóc dài xùm xụp, mồm đang nhai bánh mì, có một vài ả con gái tay còn
ôm cặp, ý hẳn đang đi học... Nhưng linh động hơn hết là hai chị đàn bà,
quần đen áo bông, lồng lộn xỉa xói mỗi tay cầm một chiếc gậy, một ả
đang chửi ngừng lại, chạy vào cái máy nước uống một hơi xong lại nhảy ra
tiếp tục tru tréo...
Một chiếc xe cảnh sát màu xanh đỗ ở sau lưng chúng
tôi, tiếp theo hai GMC chở đầy cảnh sát dã chiến. Chúng tôi lùi đàng
sau, nhường chỗ cho cảnh sát, những chuyên viên chống biểu tình dàn đội
hình mau lẹ, máy phóng thanh kêu gọi đám đông giải tán. Có tiếng la ó đả
đảo từ đám đông, một vài người bắt đầu ném gạch đá. Lời kêu gọi chót
không thành, cảnh sát dã chiến tấn công, gạch đá, khói lựu đạn cay bốc
lên. Cảnh sát dã chiến tiến tới, đám biểu tình lui lại rút về Viện Hóa
Đạo cố thủ. Trên đường vắng lăn lóc hỗn độn guốc, cặp, nón lá, dép, trơ
trẽn và buồn cười. Toán CSDC lên xe rút đi, nhường lại khỏang đường cho
chúng tôi, hàng rào kẽm gai mới được thành lập ngay trước cổng Viện Hóa
Đạo. Chúng tôi dàn hàng ngang đứng trong nắng, gió và chuỗi giông bão
chửi rủa phẫn nộ của bọn người đứng sau hàng rào kẽm gai. Một tên mặt
choắt như mặt chuột chỉ tay vào tôi:
- Đ.m... mày ăn tiền của Mỹ bao nhiêu? Tụi mày nếu
chết không có địa ngục nào trừng phạt cho hết, cha mẹ mày cho ăn học để
mày đem đạn súng giết thầy!!
Máu nóng bốc lên muốn nổ tung trí não, tôi đưa tay
vào túi nơi đựng băng đạn vừa tháo ra khỏi súng, ước gì tôi có được một
liều lĩnh. Nó sẽ chết... Nhưng khi tay chạm phải thỏi kim khí mát lạnh
đó, tôi thả ra, vì bây giờ, nếu phẫn nộ được bùng cháy, thì không phải
riêng tôi mà một trung đội hai mươi bốn người cũng sẽ bùng lên như ngọn
đuốc. Chúng tôi chưa kịp rửa đôi giày lấm bùn của chiến trận ngày hôm
qua, áo quần mặt mũi còn nguyên dấu vết của bốn ngày hành quân. Vết cháy
ở áo thằng Ty tải đạn trung liên, máu ở mặt thằng Thái và tôi, gã trai
trẻ nuôi dưỡng thật nhiều hiền hòa trong lòng, ngày hôm qua vừa được
chứng kiến những cái chết tức tưởi của một gia đình. Chỉ mới ngày hôm
qua. Không thể được, tôi phải nén xuống, phải cất dấu hết giận dữ đang
bùng lên như giông bão. Thôi, đi lính để còn lãnh chịu đựng. Nỗi chịu
đựng không bờ bến.
Đoàn biểu tình lại ùa ra, bây giờ dẫn đầu bởi một
tu sĩ mang kiếng mát màu xanh nhạt. Đến trước chúng tôi, ông ta ngồi
xuống niệm Phật, đám đông làm theo, phần đông không ngồi kiết già được,
phải ngồi chồm hổm. Tôi gặp lại tên ăn bánh mì lúc nãy, một tay chấp lên
ngực, tay kia đưa mồm để gỡ mẩu bánh dính ở kẽ răng!!! Tụng kinh xong,
ông tu sĩ đứng dậy đến sát bên tôi yêu cầu mở lối cho đám biểu tình. Tôi
lắc đầu. Ông ta năn nỉ. Không được. Mấy bà già người Bắc van xin kêu la
khóc lóc, chửi bới để phụ họa... Đàng sau chiếc mặt nạ chống hơi ngạt,
tôi nghĩ thầm: Nếu được giết người trong một lần ở trong đời, tôi sẽ
chọn lúc này. Đám đông chửi bới bằng những tiếng tục tằn thô lỗ nhất
chen với tiếng niệm Phật... Danh hiệu của Đức Thích Ca chen lẫn với rác
rưởi của trần gian. Ôi khốn khổ cho tôn giáo của tôi. Tôi nhớ cái chết
tự thiêu của bà chị ở Ninh Hòa. Ai bóp nghẹt hơi thở tôi lúc này. Đám
đông bắt đầu hỗn loạn muốn đè bẹp lên chúng tôi, một viên đá từ đám đông
bay đến đánh mạnh vào ngực của Hạ sĩ Long, tên này la lên một tiếng đau
đớn - bất ngờ - hắn đánh báng súng vào ngay mặt một gã thiếu niên đang
nhảy choi choi trước mặt. Tôi ném liền trái lựu đạn khói, cơn phẫn nộ bị
nén suốt ngày bùng lên như lửa đỏ, báng súng carbine đả ngang một vòng
trước mặt, có tiếng rú đau đớn. Tôi la lớn... Đánh nữa, đánh cho chết.
Một báng súng ngược lại... Xương người chạm vào chất gỗ cứng vỡ dòn
trong một niềm thỏa thuê. Trung đội tôi như trong cơn điên của thù hận
và phẫn nộ, những người lính lao vào trong đám đông... Tôi ném thêm một
qủa lựu đạn khói. Chạy! Chúng tôi chạy ngược về phía ngã ba Cao Thắng,
Trần Quốc Tỏan, khi về đến chỗ đại đội, cởi chiếc mặt nạ... Mắt tôi đỏ
hoe, tôi khóc hay lựu đạn làm chảy nước mắt. Ai biết được, nhưng lòng
tôi đang là một biển buồn phiền. Làm sao tôi biết được trong ngày mãn
khóa, đời sống sẵn dành cho người lính ngần này tàn bạo và tủi hổ; nhìn
lại những người lính chung quanh, bây giờ họ thật gần gũi, thân thiết.
Sau chiến tranh, người lính thấy lạ với hết mọi người của đời sống bên
ngoài, họ chỉ còn ngục tù tự nguyện của tập thể để làm thế giới cho tâm
hồn phá sản. Tôi đã cột chặt vào thế giới hung bạo, phiền muộn này, tôi
đã thành một người lính, nêm cứng với những người lính khác...
- Thiếu uý cho em chạy về nhà một lát - Một người lính trong trung đội đến gần tôi nói nhỏ.
- Lúc này biểu tình lộn xộn, đi đường có việc gì làm sao tìm ra được.
- Không có đâu thiếu uý, nghe radio "nhạc đảo chánh" là em biết liền.
- Ừ, khi nào có "nhạc đảo chánh" thì về.
Tháng 9-1964. Sài Gòn.
Chúng
tôi rời Sài Gòn trong thở dài nhẹ nhõm, một tháng ở Thủ Đô đủ để tạo
thành sụp đổ tan hoang trong lòng, đủ thấy rõ sự phản bội của hậu
phương, một hậu phương lừa đảo trên máu và nước mắt của người lính. Một
tháng đủ để chúng tôi hiểu ti tiện hèn mọn của loại lãnh tụ ngã tắt,
những anh hùng đường phố, những ông vua biểu tình theo ngẫu hứng, vua
tôn giáo đầy thù hận và dục vọng... Một tháng "vỡ mặt" lính non cũng như
lính già. Chúng tôi bây giờ biết rõ: Máu và đời sống của mình đã đổ ra
cho một xã hội lừa lọc. Thủ Đô! Tôi đi xa không luyến tiếc. Quá đủ những
con đường Sài Gòn đêm vắng vẻ, dây kẽm gai chằng chịt, lựa đạn cay xót
xa nước mắt. Đã quá đủ với Sài Gòn những buổi trưa nóng như thiêu đốt,
áo giáp, nón sắt, mặt nạ, người lính đứng cô đơn trong sỉ nhục căm thù
của đám đông nhân danh Tổ Quốc và Thượng Đế... Sài Gòn, chúng tôi thù
ghét và ghê tởm Thủ đô đục ngầu phản bội và thù hận. Tôi ao ước một cơn
hồng thủy sẽ cuốn trôi thành phố sau lưng, một cơn hồng thủy xóa hết dấu
tích nhơ bẩn mà Thủ đô đã bôi lên khuôn mặt bi thảm của quê hương. Tôi
ao ước được quên một thành phố tên gọi Sài Gòn.
Xe chạy ra khỏi thành phố hướng về Tây Ninh. Trời
xanh, không khí thoáng đãng, tôi thèm được đi xa. Đến Hóc Môn, đoàn xe
dừng lại để lính nhảy xuống mua các thứ lặt vặt cần thiết cho cuộc hành
quân. Sau hai tháng căng thẳng trong sự chết và bạo động, người lính bây
giờ được thả xuống giữa quận lÿ sầm uất chất phác. Họ thỏai mái dễ chịu
như trở về thế giới quen biết. Chúng tôi phải trả nợ nghiệp lính bằng
năm ngày hành quân trước khi trở về hậu cứ. Từ Hóc Môn đoàn xe đi dọc
theo liên tỉnh lộ 15 hướng về phía bắc, xe chạy trong cánh đồng mênh
mông, sau hơn một tháng bị nhốt chặt trong thành phố ầm ĩ nay được thả
ra cùng đất trời rộng rãi, lòng tôi mở ra như cơn gió reo. Đến ấp Đông
Nhất cách Hóc Môn mười cây số, dừng lại xuống xe. Một tiểu đoàn bộ binh
đã có mặt từ trước đợi chúng tôi. Hai tiểu đoàn sẽ xuất phát từ đây, xâm
nhập theo con đường liên tỉnh hướng tây-bắc để giải tỏa áp lực địch tại
vùng Bến Cỏ. Hai đơn vị đã dàn xong đội hình, lấy con đường làm chuẩn,
tiểu đoàn bạn bên trái, chúng tôi bên phải, mục tiêu là làng Paris Tân
Qui, nơi gặp gỡ của đường liên tỉnh 15 và hương lộ nối từ Ấp Nhà Việc
với Củ Chi. Đại đội 74 dẫn đầu, đại đội chúng tôi đi chót, trung đội tôi
đi cuối cùng. Mười phút đã qua, chúng tôi vẫn chưa di chuyển được thước
đất nào, rảnh rỗi tôi lấy khẩu cầm ra thổi, tiếng trầm bỗng loang xa
trên cánh đồng chơi vơi như cánh chim nhàn hạ... Bỗng súng nổ, một tràng
ngắn, tiếp theo những tràng đại liên ròn rã ở phía đầu tiểu đoàn bộ
binh. Cuộc chạm súng kéo dài khoảng mười phút, địch chỉ muốn trì hoãn
bước tiến đoàn quân để chạy trốn. Mười hai giờ trưa đến Paris Tân Qui,
làng nhỏ bao bọc chung quanh bởi rừng cây cao su xanh ngắt. Địa danh
thật đặc biệt, không hiểu do sự nhầm lẫn của người lập bản đồ hay do một
anh Tây nào đó trong lúc nghịch ngợm đem tên của Thủ đô ánh sáng đặt
cho làng nhỏ này. Tiếp tục tiến quân lên Bến Cỏ, quận lÿ đặt cuối đường
liên tỉnh, bên kia suối Bến Nây. Cầu đã bị giựt sập, tiểu đoàn dừng lại
bố trí quân dọc theo đường đá đỏ. Đại đội 72 đi đầu cho một vài khinh
binh qua dò đường. Trời ủ giông, nắng quái mây mù, con đường vắng như
một nỗi thê lương... Nếu không có chiến tranh, từ đây về Sài Gòn chỉ
khoảng nửa giờ xe đò, những con đường nhỏ này là mạch máu của miền Nam
nối liền Thủ đô với thôn xóm trù phú. Ruộng ở đây không bát ngát bằng
những tỉnh ở miền Tây, nhưng mạnh và tươi tốt. Nhìn đồng lúa mới thấy rõ
sức chịu đựng dẻo dai triền miên của dân tộc. Nhớ bài chính tả của mười
hai năm trước — Đồng lúa mới... Tôi đến một vùng quê, kề bên trận địa,
cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông phu cần mẫn, nhìn vào
thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm... Sáng
mai thức dậy, đố ai biết có những gì thay đổi, cánh đồng vắng vẻ ngày
hôm qua nay đã xanh rì ngọn mạ... Bài chính tả của lớp nhì biến thành
bài học thuộc lòng. Ông giáo cuả tỉnh nhỏ, thầy Tiến, trường Hoàng Diệu,
dáng người mập mạp, nhưng bỗng nhiên khuôn mặt hóa nên linh động khi
giảng nghĩa cho lũ học sinh nhỏ, sức chịu đựng nỗi kiên nhẫn của những
người nông phu, đêm trở về trên cánh đồng vắng, cắm những cây mạ xanh
trong lòng đất còn mùi thuốc súng... Cánh đồng ở đây cũng loáng nước,
mái tranh thôn xóm tiêu điều xơ xác, nhưng thân lúa xanh vẫn mọc lên
phơi phới. Tôi rung động trong niềm cảm phục quê hương, những người nông
dân Việt Nam cuối tận cùng của khổ cực luôn luôn thắp sáng cho mình hy
vọng. Nhớ đến bàng hoàng dáng dấp của thầy tỉnh lẻ, một ông giáo bình
thường nhưng đã gieo vào hồn tôi những rung cảm kỳ diệu khi bằng giọng
nói của người dân xứ Quảng với quê mùa mộc mạc, thầy Tiến vẽ trong đầu
óc trẻ thơ một hình ảnh lặng lẽ nhưng hào hùng của dân tộc. Cảm giác này
cũng tương tự như khi đọc Sơn Nam với những câu ca dao... Ra đi gặp vịt
cũng lùa, gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu... Cảm ơn đời trong tuổi
nhỏ đã có người tặng cho những đóa hoa dịu dàng, những lời ca ngợi quê
hương. Người Đại Hàn tượng trưng cho dân tộc của một đóa hoa, Trung Hoa,
Nhật Bản lấy biểu tượng ở mặt trời... Tôi ao ước được trông lại biểu
tượng cây lúa của dân tộc. Cây lúa bình thường đầy kiên nhẫn.
Ba người khinh binh đi đầu tiến ra được giữa cầu,
cầu bị gãy, họ phải bò theo những thanh sắt, một loạt đạn từ bờ bên kia
bắn vụt qua. Đạn chạm vào thành cầu long cong, một người lính lảo đảo
rơi xuống, hai người kia vội vàng chụp lấy bò trở về. Súng cối của tiểu
đoàn bắn về phía có tiếng nổ năm trái... Ba người khinh binh khác được
đề cử qua cầu, dưới sự yểm trợ của súng cối 60 và 81 (1) trong lúc súng
cối tạm ngưng vì tháo đạn chưa kịp, Việt Cộng ở bên kia bờ lại bắn qua
tới tấp.
Hai người lính ở sau bò lại, chỉ một người qua được
bên kia bờ. Không thể làm im được toán Việt cộng bên kia bằng súng cối,
mặc dù chúng chỉ ước chừng một tiểu đội, nhưng hầm hố kiên cố đạn súng
cối chính xác đến đâu cũng không phá hủy được. Hơn nữa số đạn mang theo
giới hạn. Bộ chỉ huy tiểu đoàn quyết định gọi máy bay đến oanh tạc đồng
thời đề phòng trường hợp địch tập trung đông. Ba Skyraider (2) bay một
vòng để chỉ định mục tiêu. Khói trắng vừa bốc lên khỏi lũy tre, chiến
đấu cơ hạ thấp độ cao đâm thẳng xuống, cả một khu bìa làng bị cầy tung
đất khói và lửa bốc thành những chiếc nấm lớn. Năm giờ chiều, người chót
của tiểu đoàn mới qua hết con suối, ngôi làng con âm ỉ cháy, mùi lá
tươi bị đốt nồng nặc. Chúng tôi đóng quân đêm tại đây, cứ điểm Bến Cỏ
nằm sau lưng không đầy một cây số. Ngày mai chúng tôi sẽ vào đấy giao
tiếp với một tiểu đoàn Biệt động quân bị cô lập suốt sáu tháng nay.
Bảy giờ sáng, tiểu đoàn bắt đầu di chuyển, đoạn
đường xuyên qua làng mạc dày đặc vườn cây ăn trái và nhà cửa. Đường liên
tỉnh 15 chạy từ Hốc Môn đến Bến Cỏ chia làm hai nhánh, một đường chạy
lên hướng bắc gặp bờ sông Sài Gòn, từ đây chạy song song với con sông
lên đến vùng Bến Súc rồi ra Trãng Bàng. Một nhánh ngắn hơn từ Bến Cỏ
chạy ra Củ Chi. Bốn cứ điểm Bến Cỏ - Bến Súc -Trãng Bàng - Củ Chi tạo
thành khu tứ giác mật khu Hố Bò nằm song song với mật khu Bời Lời ở bờ
phía bắc sông Sài Gòn. Cứ điểm Bến Cỏ như một cái nút chận đường xâm
nhập của địch về Gia Định nên từ lâu địch đã vây kín và pháo kích vào
hằng ngày. Chúng tôi tiến quân thật dè dặt, một đơn vị bạn trước đây đã
bị phục kích ngay tại khu làng này khi muốn "bắt tay" (1) với đơn vị
trong đồn, hôm đó pháo binh và phi cơ không thể can thiệp được, trong
khi địch có đủ công sự phòng thủ và giao thông hào dày đặc trên lộ trình
vào cứ điểm. Hai đại đội đi đầu không dám đi trên đường vì sợ mìn, khi
đi qua các khu vườn mọi người đều ngán ngẩm, địa đạo và giao thông hào
đào chi chít, nếu địch phục kích chúng tôi tại đây thì khó lòng chống
trả. Vòng rào dây kẽm gai và cột dây trời của đồn hiện ra trong tàn cây
xanh. Thật thận trọng, tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho từng đại đội một
tiến vào hàng rào phòng thủ, hai người lính Biệt động quân ra mở cổng...
Cứ điểm gồm có hai phần, chiếc đồn chính nằm ở phía trái của con đường,
bộ chỉ huy tiểu đoàn Biệt động quân đóng chung với một đại đội Địa
phương quân tại đây; đồn là một loại bót nhỏ của lính Pháp để lại, tường
gạch rêu phong ba tháp canh trơ trọi đứng ba góc, chung quanh đồn là
tuyến phòng thủ của ba đại đội tác chiến, những người lính Biệt động
quân đào hầm ở ngay trên tuyến phòng thủ. Đối diện chiếc đồn là ngôi chợ
nhỏ, hai bên đường nhà thường dân san sát vào nhau, phần lớn cửa đóng,
người dân đã di cư về Bình Dương hay Sài Gòn. Có những danh từ nghe
thoạt tiên rất vô nghĩa, nhưng nếu với hoàn cảnh, không khí thì thích
hợp, những chữ nghĩa khô khan kia hóa nên linh động hẳn ra như một nốt
nhạc. Ở đây, Bến Cỏ không thể có một tên gọi nào thích hợp bằng "phố
chợ", không thể gọi là quận lỵ, thị trấn, cũng không hẳn là một cứ điểm
đúng nghĩa danh từ quân sự... Một tiểu đoàn lính bao một đám dân, con
đường, ngôi chợ, hai dãy nhà cửa, cây bàng xanh tươi bóng mát, vài quán
hàng bán những thức lặt vặt. Bến Cỏ không có nét trẻ trung, vui vẻ của
những phiên chợ thôn quê, đây không khí tang thương, khắc khoải như một
bệnh nhân bị gậm mòn dần bởi chứng nan y. Chúng tôi ra đóng quân ở phía
đông của cứ điểm. Những buổi sáng lính thường vào uống cà-phê ở chiếc
quán dưới gốc cây bàng, những người lính ngồi đối diện với nhau lặng lẽ.
Con đường vắng hoe lác đác dăm chiếc lá khô, điểm sinh động duy nhất là
quán hủ tiếu của một người Tàu. Người Trung Hoa trong hoàn cảnh nào
cũng đứng đầu bởi sức chịu đựng, nhưng người Việt cũng đâu kém. Chúng
tôi đóng quân được hai ngày, tình hình im lặng, im lặng ngột ngạt trước
trận đánh. Cứ điểm đã bị bao vây suốt sáu tháng, quân số phòng thủ của
tiểu đoàn Biệt động quân bây giờ chỉ còn hơn hai trăm. Việt Cộng đào hào
thông hào đến sát hàng rào phòng thủ, chúng không tấn công chỉ bắc loa
chửi, bắn sẻ, pháo kích... Chiến thuật này đã làm tiêu hao quân số của
đơn vị bạn. Cách hay nhất là đề phòng, nhưng ai có thể kéo dài tình
trạng đề phòng trong sáu tháng. Ngồi uống nước, nghe tiếng súng cối cuả
địch, nhảy xuống hố không kịp thế là bị thương. Gác ở chòi canh, tuần
tiễu ra khỏi hàng rào một trăm thước, khinh binh coi như đã treo đời
mình trên một đường dây mỏng manh. Giao thông hào đào sát vào con đường
từ đồn đi ra, tỏa chi chít khắp nơi, kín đáo chắc chắn. Người khinh binh
làm sao biết được mũi súng ở hướng nào nhắm vào mình! Sáu tháng, những
người lính Biệt động quân bây giờ trở nên dửng dưng, họ đã đến chót cùng
chịu đựng. Ngay đến chúng tôi, những người mới tới, bằng bao nhiêu cẩn
thận cũng không tránh khỏi thiệt hại. Đang nói chuyện với nhau trong
vòng phòng thủ, một viên đạn bất chợt bay đến, binh nhất Phòng của đại
đội 72 ngã xuống chết không ngờ. Viên đạn xuyên thủng bàng quang chấm
dứt đời kẻ bạc phước trong vòng một phút. Từ chỗ đóng quân vào chợ, đoạn
đường không quá ba trăm thước, nhưng cũng không an toàn. Bất cứ lúc
nào, khi toán giữ đường không cẩn thận là có kẻ ngã gục bị bắn sẻ. Việt
cộng rình rập chúng tôi - đêm nay? ngày mai? - Chúng tôi chờ đợi phút
hồi hộp đó. Đóng quân được bốn ngày, chúng tôi nhận được lệnh rút ra ngã
Củ Chi, vẫn lấy con đường liên tỉnh 15 làm chuẩn, tiểu đoàn chúng tôi
đi bên phải, tiểu đoàn bộ binh đi bên trái. Lộ trình rút ra xuyên qua
khu đồn điền cao su Fihoc, hành lang xâm nhập vào mật khu Hố Bò. Chúng
tôi không biết những người bạn Biệt động sẽ ra sao, họ ở lại chờ một
tiểu đoàn khác đến thay thế, hay tiếp tục để nhận một cái chết mòn mỏi
chậm chạp? Có thể các vị chỉ huy ở cấp lớn đã nghĩ rằng: Chúng tôi đã có
mặt bên ngoài trong bốn ngày vô sự vậy là áp lực địch được giải toả,
bây giờ họ đang có những vấn đề to lớn khác cần phải giải quyết ở Sài
Gòn trong đường Trần Quốc Tỏan, ở Đài phát thanh. Thôi, tiểu đoàn Biệt
động quân, các bạn hãy ở lại và tiếp tục như sáu tháng đã qua. Sáu tháng
chỉ thèm một cục nước đá, phần đời của các bạn như vậy đã được định.
Tôi nghĩ đến chiếc bánh mì và nải chuối cuả một mụ nạ giòng đem đến tặng
cho lính ở Đài phát thanh để tri ân quân đội giúp đỡ đạo pháp...
Bảy giờ, hai tiểu đoàn song song rút ra. Đại đội
tôi cùng đại đội 73 đi đầu tiểu đoàn. Đại đội 73 đi phía tay mặt tôi,
Toàn "đen" dẫn đầu, tôi nói với Đỗ, anh chàng "Eddie Constantin":
- Thằng Toàn đi đầu thế nào cũng đụng.
Có thể lắm, mặt nó có cô hồn... Vừa di chuyển được
ba mươi thước một loạt đạn nổ ròn rã trước mặt. Hạ sĩ Thặng khinh binh
đi trước tôi ngã xuống, hai viên đạn bẻ gãy khẩu AR 15 đồng thời làm
cườm tay anh gãy đôi. Việt cộng thật ra nhắm vào tôi vì cầm tấm bản đồ,
nhưng Thặng vừa qua mặt nên lãnh lấy, hai viên đạn đáng lẽ ra đâm thủng
cơ thể tôi... Một thoáng rùng mình, đạn bắn thấp, nếu không gãy chân thì
cũng thủng bàng quang. Tôi nhớ đến cái chết của thằng Phòng hai ngày
trước, chút xíu nữa thì mạng tôi cũng xong rồi! Vết thương của Thặng
không nặng lắm, cây súng đã đỡ lấy hai viên đạn, cả anh và tôi đều may
mắn. Tăng Màn Tài, trung đội phó khẽ nói với tôi:
- Thiếu uý, hôm nay đụng a, sáng nay tôi nấu cơm không chín.
Tôi cười không nói, nhưng lòng đầy lo ngại... Cánh
quân chúng tôi và bộ binh tiếp tục di chuyển về phía Bến Mương. Mười giờ
- binh nhất Niên - khinh binh đi trước tôi đột nhiên nhảy hẳn qua một
bên, bắn một loạt súng...
- Cái gì vậy?
- Thiếu uý, em thấy trước mặt có người!
- Việt cộng đó, coi chừng.
Buổi sáng lúc xuất quân đã có người dân đến báo:
Việt cộng ở khu rừng cao su rất đông, đào hầm để đợi chúng tôi. Tiểu
đoàn trưởng quyết định chấp nhận trận đánh, cả chúng tôi và bộ binh đều
sẵn sàng tác xạ khi di chuyển. Niên hét lớn:
- Đưa tay lên, tiến tới.
Trong lá xanh hiện ra một người mặc quân phục màu
xanh đeo ba-lô mặt mày ngơ ngác. Y là một binh sĩ của tiểu đoàn bộ binh,
chúng tôi không biết tại sao anh ta đi lạc và không có súng. Chúng tôi
giao cho ban 2 tiểu đoàn để điều tra. Chính trong những giờ phút dừng
lại để bắt giữ người lính kia, sau này tôi mới biết đã cứu mạng cho toàn
thể trung đội tôi. Vì trong khi chúng tôi dừng lại, đại đội 73 phía tay
phải vẫn tiến tới để bắt gặp con đường mòn cách đó trăm thước và chính
trong lúc này thì trận đánh bắt đầu, phía tiểu đoàn bộ binh và đại đội
73 súng đại liên nổ ròn rã không dứt, chúng tôi vội vã dàn hàng ngang
chờ đợi.
Đạn bay trong không khí về phía chúng tôi, lá cao
su trên đầu bị bắn tung bay xào xạc, đạn ghim vào thân cây nghe phầm
phập, có tiếng hô xung phong nhưng không thấy bóng dáng của địch. Đại
đội trưởng tôi hét lớn trong máy:
- Bên bộ binh và 73 đều đụng nặng, anh có chịu nổi không?
- Báo cáo tôi vô sự.
- Coi chừng, tụi nó đánh độn thổ! Bộ binh bị phục kích rồi đấy.
Mười lăm phút sau, đại đội 73 từ bên cánh phải rút về phía chúng tôi. Toàn bị thương, người nhăn nhó đau đớn, hắn phều phào...
- Mày coi chừng, tụi nó sắp xung phong vào đấy.
- Tao đâu có thấy gì?
Một rừng lá cây chuyển động trước mặt, vài bóng
dáng áo đen thấp thoáng. Trung đội tôi và Kỳ đồng loạt khai hỏa, năm
mươi cây súng bắn ra một lượt, khói hơi thuốc súng bay nồng nặc. Chúng
tôi tiến quân từ từ lên sau mỗi đợt tác xạ. Tôi giật nẩy mình, một hàng
giao thông hào mới đào, lá cây ngụy trang còn xanh tươi, vỏ đạn rơi đầy ở
trên mỗi miệng hầm, đúng là một phép mầu... Việt cộng đã đào hầm hố để
phục kích chúng tôi, may nhờ người lính bị bắt nên trung đội tôi đã dừng
lại và vô tình tránh được cái bẫy đang chờ. Bây giờ mới hiểu tại sao có
loạt đạn bắn về phía chúng tôi nhưng không có địch xuất hiện. Việt cộng
sau khi đã chận đầu tiểu đoàn bộ binh và chúng tôi, vòng ra đàng sau
đánh tạt vào hông phải của tiểu đoàn nơi đại đội chỉ huy và 74. Mặt
trước của chúng tôi và 73 tạm yên, tôi cho lính chiếm hết dãy giao thông
hào, một vài xác Việt cộng chết trong vị thế đang chạy, họ thuộc lính
chính quy trang bị đầy đủ súng đạn nhưng không mang gạo. Đúng là tụi nó
sửa soạn sẵn để đợi chúng mình... Lính xì xào bàn tán. Phía sau chúng
tôi bây giờ súng nổ mạnh, 57 của tiểu đoàn bắn ra liên tiếp, đạn nổ tiếp
theo liền tiếng départ chứng tỏ địch rất gần hàng quân. Tôi nghe rõ
tiếng hô xung phong của hai bên chen lẫn tiếng chửi thề... Toàn từ dưới
chạy lên...
- Mẹ kiếp, bị thương nằm cũng không yên, tụi nó tới sát rồi mày ạ!
- Ông xui quá ông ơi, đi đâu là đụng đó. Ông tới chỗ nào cũng có máu chảy...
- Mẹ mày - Nó chởi thề phản đối.
Đúng như vậy, đi chiến đấu mới thấy có may rủi
không lường. Có những cái chết thật gần, nhưng tránh khỏi, đồng thời có
những cái chết thật bất ngờ, tự nhiên đến không dấu hiệu. Tôi đâm tin
vào định mệnh, về một sức mạnh siêu hình chi phối đời sống con người.
Như cái chết của thằng Phòng hai ngày trước. Buổi chiều chúng tôi đang
ngồi nói chuyện gẫu với nhau, nó từ đâu lại ngồi đối diện với tôi. Chính
ngay lúc đó, một viên đạn vu vơ từ ngoài hành rào phòng thủ bắn vào, nó
chết trong khi đang mở miệng định nói. Cái chết ấy đã làm tôi thấy rõ
đời sống nhỏ nhoi, bèo bọt của kiếp người. Sống đó, chết đó, nào ai
biết... Cũng như trường hợp hôm nay, nếu không bắt gặp người lính bộ
binh, chắc chắn tôi và hai khinh binh đi đầu sẽ hứng hết đoạn đạn đầu
tiên khi địch khai hỏa. Và nếu tôi có chết đi, thì có gì thay đổi? Tôi
không có gia đình, không thân thích. Cái chết chỉ là bọt sóng nhỏ vỡ tan
trong đại dương...
Địch định cắt đôi tiểu đoàn chúng tôi, nên chúng
tấn công thật mãnh liệt vào đoạn giữa, đại đội chỉ huy phải chống lại vô
cùng vất vả, 74 đi chót lại bị cầm chân nên không thể kéo lên gỉai toả
áp lực địch được. Tiểu đoàn trưởng phải gọi pháo binh bắn thật gần tuyến
chiến đấu... Gunship được gọi đến tăng cường. Đại uý Ánh, sĩ quan hành
quân của tiểu đoàn trong khi đứng quan sát để hướng dẫn phi cơ bị một
viên đạn vỡ tan lồng ngực. Tin ông chết làm mọi người bàng hoàng, ông
được cảm tình của hầu hết mọi người vì tánh tình hòa nhã, riêng tôi,
những lần trước khi phải trình diện tiểu đoàn trửơng để nhận lệnh phạt
thường phải gặp ông, trong những giây phút nặng nề đó, lời nói nhẹ nhàng
của ông như một an ủi làm nhẹ đi nhiều phiền muộn. Tôi không biết ông
nhiều, nhưng nhớ đến những buổi chiều, ông đứng ở bờ sông Biên Hòa trông
cô đơn và lặng lẽ lạ lùng. Đại tá Tư lệnh và Bác sĩ Y sĩ trưởng sư đoàn
đáp máy bay xuống trận địa còn nồng mùi thuốc súng. Tôi thấy nét mặt
cuả bác sĩ Của cau hẳn lại khi ông đến gần xác đại uý Ánh. Tiểu đoàn
tiếp tục di chuyển đến cầu Bến Mương bên kia là bãi nhảy Củ Chi, cầu bị
sập binh sĩ phải qua từng người một. Trung đội tôi ở lại cuối cùng để
bảo vệ tiểu đoàn qua cầu. Trời ngã về chiều và khi chúng tôi nhận được
lệnh rút đi thì địch từ mé làng xung quanh bắt đầu bắn ra. Những viên
đạn đỏ vạch từng đường đài trong bầu trời thẫm màu, biết chắc rằng chúng
chỉ bắn phá quấy chứ không thể tấn công vào chúng tôi được. Khẩu đại
liên của trung đội qua cầu được đặt trên một mô đất nhắm về phía làng,
cứ chỗ nào nháng lưả là người xạ thủ bắn lại phía đó. Trận đánh như trò
chơi, Việt cộng trong làng chõ loa ra chưỉ bới, tôi đứng trên mô đất
khum tay làm loa chửi lại. May mắn trong suốt cuộc hành quân làm tôi tin
tửơng vào mình hơn bao giờ hết. Quả thật vậy, khi trung đội qua hết con
suối trời tối hẳn, Việt cộng từ trong làng chạy ra lố nhố... Chúng tôi
vừa bắn vừa chạy lùi về phía Củ Chi. Bãi nhảy dù bát ngát phủ đầy lá đậu
phọng, trung đội chạy nhanh để đuổi kịp toán quân đi đầu, ai nấy đều
vui vẻ vì cho rằng đã được may mắn. Khi ra đến đường ba người lính trút
ba-lô ra, ba-lô bị đạn xuyên thủng lỗ chỗ.
- Đ.m hên đếch chịu được, đạn trúng giờ nào mà không hay!
- Nhờ cái hên của ông thiếu uý đó mày.
Tôi leo lên xe ngồi, trời tối đen ở bên ngoài,
trong lòng xe muỗi vo ve nhưng không buồn cử động để đuổi đi. Đời sống
người lính qủa thật tội nghiệp, trong tận cùng nguy biến họ luôn tạo cho
mình hy vọng dựa vào một may mắn mỏng manh... Bao giờ hết may mắn đó sự
chết ắt gần kề chạm phải. Đời sống của chúng tôi đó, trên biên giới sự
sống, cái chết.
Tháng 9-1964. Bến Cỏ, Bình Dương
No comments:
Post a Comment