Phan Nhật Nam tên thật Phan Ngọc Khuê, sinh ngày 9
tháng 9, năm 1943, chánh quán Thôn Nại Cữu, Huyện Triệu Phong, Tỉnh
Quảng Trị. Do một lý do (thật chưa biết rõ), cha mẹ đổi nên Phan Nhật
Nam với ngày sinh mới, 28 tháng 12, 1942, làng Phú Cát, Huyện Hương Trà,
tỉnh Thừa Thiên. Vốn lính tác chiến Nhảy dù (Ám số chuyên môn 240.7
Chỉ huy một đơn vị bộ binh), kể từ ngày mãn khóa Trường Võ Bị Đà Lạt,
23 tháng 11, 1963; qua các tiểu đoàn 7, 9, 2; Lữ Đoàn II Nhẩy Dù. Thế
nên, mãi đến mùa xuân 1968 cũng không hề chuẩn bị, sắp sẵn cho việc viết
văn. Dấu hiệu tài năng thiên phú lại là điều không khả thể, cho dù với
tỷ lệ nhỏ nhất. Trong chức vụ sĩ quan hành quân Lữ đoàn với lệnh hành
quân, máy truyền tin, điều động phối hợp, theo dõi bốn tiểu đoàn bộ
chiến Nhẩy dù, hai tiểu đoàn pháo cơ hữu, một tiểu đoàn pháo diện địa,
hai liên đội Địa Phương Quân, một Giang Đoàn Xung Phong tăng cường...
Công việc đúng nghĩa 24/24 giờ của một ngày. Một tháng đúng ba mươi ngày
bắt đầu kể từ ngày vào vùng hành quân. Không một chút ngơi nghỉ, bởi
một điều giản dị - Lực lượng Cộng sản không hề có dấu hiệu chấm dứt Tổng
Công Kích kể từ đêm giao thừa Tết Mậu Thân. Sẵn giấy bút, đêm khuya
không hết; và người bạn thời niên thiếu ( Đã là nhà văn Nguyên Vũ ) đang
luôn ngồi bên cạnh làm sĩ quan liên lạc pháo binh thúc dục... Định Mạng
của một Nghiệp Vận kỳ lạ mở ra - Người Lính Cầm Bút cùng lần với Vũ
Khí. Và viết đã trở nên một nhu cầu. Viết mở ra một thế sống mới, một
cứu viện sinh tử - Không có không được. Bởi cơn đau với dấu ấn binh lửa
không phải chỉ cảnh nhà cháy, súng nổ, đạn bom rơi vãi... Điều kinh
khiếp vô phương cứu nạn của chiến tranh lần hiện rõ - Thật lần tận diệt
Con Người. Người Việt Nam hoàn toàn bị coi khinh, đầy ải ngay chính trên
Quê Hương mình. Và Chiến Tranh không hề có dấu hiệu, khả năng chấm dứt.
Cũng như tính tất yếu ( được Lựa Chọn ) của Tự Do - Người Việt chỉ có
quyền đứng về phía của Chiến Tranh.
Từ trong tình cảnh khốn cùng khắc nghiệt kia: Dấu
Binh Lửa - Dọc Đường Số I - Mùa Hè Đỏ Lửa, phải viết nên cho buổi Sống
Thật và Chết Oan Khiên. Không phải của một cá nhân đơn lẻ mà toàn Dân
Tộc Nghiệp Hận... Kẻ Bắc - Người Nam; trong binh ngũ, với dân lạc
loài... Tất cả cùng chung mang dấu lửa, càng ngày càng đậm sắc, xuyên
sâu. Và dẫu rằng đằng sau cái chết, vẫn sừng sững nỗi oán hờn thiên thu
của dòng sống oan nghiệt thật đã hình thành từ rất lâu. Tận đáy vực
không phương thế trốn thoát ấy, tiểu thuyết của: Dựa Lưng Nỗi Chết - Ải
Trần Gian, cũng chung một cảnh sắc bi thiết - Đất nước thật nơi tan vỡ
với Sự Chết Thường Hằng.
Ngày 27 tháng 1, 1973, Hiệp Định Tái Lập Hòa bình
tại Việt Nam được ký kết. Bởi cơn đau không sút giảm, cuộc chiến chỉ
thoáng đổi thay cường độ, không phải để kết thúc. Người viết đã nên quả
quyết - Hòa Bình là trạng thái không Thật - và bản văn Hiệp Định chỉ
hoàn tất chuyện dối lừa.
Tính Thiện và Tâm Thành đưa Người Lính Viết Văn
bước cao hơn, vượt quá mưu toan biển lận của chính trị - TÙ BINH VÀ HÒA
BÌNH vì thế PHẢI ĐƯỢC VIẾT.
Ngày 28 tháng 1, toàn thế giới tung dây ngũ sắc,
rót rượu uống mừng Hòa Bình. Ở Việt Nam, người viết với tâm cảnh bi
thương trên quê hương khổ nạn đã cất lời cảnh cáo: “ Kẻ lảnh giải thưởng
Nobel huân công Hòa Bình kia là một lũ bợm bãi sát nhân...”. Thế giới,
loài người, kể cả ở Sài Gòn... Nào mấy được ai nghe!!
Có ai nghe tiếng kêu trầm thống của người tù mặt
trận Hạ Lào nơi thung lũng Việt Hồng, xã Việt Cường, huyện Trấn Yên,
tỉnh Hoàng Liên Sơn... Những Đại Tá Nguyễn Văn Thọ - Lữ Đoàn Trưởng;
Trung Tá Trần Văn Châu, Thiếu Tá Đức, các Đại Úy Châu, Thương, Trụ của
Lữ Đoàn III Dù; Thiếu Tá Trần Ngọc Huế của Sư Đoàn I Bộ Binh và hằng
trăm người của những toán Biệt Kích mang bí danh: Bear, Cat, Lance, Red
Dragon, Remus.. Những Biệt Kích Quân bị bắt từ những năm đầu của thập
niên 60, Nguyễn Huy Luyện, Hà Sơn, Nguyễn Công Thành... ở “ Cổng Trời ”
Quyết Tiến, Hà Giang - biên giới Việt-Trung, chịu đựng suốt hai, ba mươi
năm ( 60, 70, 80...) cách đối xử tàn nhẫn đã vượt hẳn kỷ lục và kỹ
thuật giết người của Đầm Đùn - Lý Bá Sơ, thuở Cộng sản còn trong giai
đoạn “ chuẩn bị cho tổng tấn công sau 1950 ”. Danh sách trao trả do phía
Cộng sản chuyển đến phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa tại Ba Lê không có tên
những người tù kể trên. Phía Cộng sản nhận đủ 26.508 người không một sai
sót. Trại giam tù quân sự Phú Quốc hoàn toàn giải thể và ba tiểu đoàn
Quân cảnh ( coi giữ tù ) biến cải thành bộ binh, đưa trở về đất liền.
Lê Đức Thọ, Nguyễn Thị Bình ở Ba Lê; Trần Văn Trà,
Lê Quang Hòa, Võ Đông Giang ở Tân Sơn Nhất; Xuân Thủy, Nguyễn Duy Trinh ở
Hà Nội đều đồng loạt trịnh trọng tuyên bố “Nếu có quân nhân phía Việt
Nam Cộng Hòa bị bắt ở mặt trận đường 9 Nam Lào thì (có thể) họ bị quân
đội Pathet Lào bẳt giữ?!...”. Ở Hà Nội đồng thời cho phổ biến phim Người
Khách Không Mời với nhân vật chính, Thiếu Tá Huế, sĩ quan cùng khóa,
cùng đại đội với Phan Nhật Nam ở trường Đà Lạt. Huế bị bắt ngay tại LZ,
bãi đáp mục tiêu Tchépone, Hạ Lào đầu năm 1971.
Năm 1976, Ngưòi Lính Viết Văn Bị Tù gặp đủ chiến
hữu của mình ở thung lũng Hoàng Liên Sơn. Ngày 21 tháng 2, 1979 vào
phòng kiên giam số 2, trại 5 Lam Sơn, Thanh Hóa, Phan Nhật Nam nghe từ
buồng số 4 có tiếng hát “Bảo vệ làng thôn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa...”
giọng khàn đục mệt mõi - Anh Nguyễn Công Thành bị kiên giam từ 1964 -
Năm anh bị bắt.
Cuối cùng, ba mươi năm sau, những Biệt Kích Quân
còn lại, khoảng bảy mươi người của tổng số hơn bốn trăm bị Cộng sản Bắt
Việt giam giữ kể từ những toán đầu tiên: Atlas, Bart, Bear, Bell,
Becassine, Bull... Tellus, Swan (Lưu ý bạn đọc, danh hiệu đã quá hai
mươi bốn chữ cái) của giai đoạn 1961 -1962 đến những người cuối cùng
được ghi nhận, Mai Văn Tuấn bị bắt năm 1969, chết ngày 2 tháng Tám, 1970
tại Trại Phong Quang, Yên Bái, trở về Nam... Khi thiết lập hồ sơ H.O.
những người lính trở về từ cõi chết này KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN LÀ QUÂN
NHÂN THUỘC QUÂN LỰC VNCH. Cơ quan tuyển mộ, huấn luyện điều động họ -
TOÁN NGHIÊN CỨU VÀ QUAN SÁT/BỘ TƯ LỆNH YỂM TRỢ QUÂN SỰ ( Military
Assistance Command Studies and Observation Group - Viết tắt MACSOG hoặc
SOG ) từ đầu năm 1960 - 61; sau này thuộc Bộ Quốc Phòng, nhận quyền chỉ
huy trực tiếp của Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương ( Kể từ biến cố 1963 tại
Việt Nam mà các bộ phận kia trước đây có dính líu chặt chẽ với tổ chức,
nhân sự của Đệ Nhất Cộng Hòa ) - Đổi qua Kế Hoạch mang bí danh Alpha 34,
mà chính Bộ Trưởng McNamara cũng không hề trình đến Tổng Thống Mỹ - sự
kiện không hề được ai biết. Không một ai muốn nhắc lại. Lính Biệt Kích
Việt Nam Cộng Hòa không được kể đến trong tiêu chuẩn, chính sách di dân
của chính phủ Mỹ qua chương trình ODP. Một người Mỹ, Sedgwick “ Wick ”
Tourison, trước 1975 là nhân viên tình báo Lục Quân Hoa Kỳ, sau này phụ
trách công tác Nghiên Cứu thuộc Ủy Ban Tù Binh và Người Mất Tích/Phòng
Tình Báo Bộ Quốc Phòng Mỹ ( 1983-1988 ) lật khối hồ sơ bi thảm về những
người bị cả bạn lẫn thù đẩy vào bóng tối lãng quên và sự chết. Chiến hữu
cao thượng này không kìm được phẫn nộ. Anh gióng lên lời báo nguy:
Secret Army Secret War - được thành hình. Thế nên, Người Viết Văn không
thể im lặng. Người Lính không thể bỏ cuộc chiến đấu cùng đồng đội; lời
tố cáo tội ác xảo quyệt cần phải được nhắc lại. Hơn hai mươi năm sau, Tù
Binh và Hòa Bình vẫn còn nguyên giá trị về một lời báo động - Tù Biệt
Kích VNCH vẫn thăm thẳm vũng tối đọa đày nơi vùng đất có cái gọi là Hà
Nội - Niềm Tin Yêu và Hy Vọng - Thủ Đô của Phẩm Giá Con Người ”. Giáo sư
Đoàn Viết Hoạt hôm hay lập lại tình cảnh của Đại Úy Biệt Kích Nguyễn
Huy Luyện ba mươi năm trước, ở trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa; cũng là nơi
Phan Nhật Nam đã đến từ ngày 17 tháng 4, 1986. Lúc ở đấy không còn một
ai là tù người Nam. Vâng, phải đến ba mươi năm để cốt giết một người.
Những người tù miền Nam kia không được làm người biết đau đớn; họ là bọn
“ ngụy quân, ngụy quyền có nợ máu với nhân dân ” nên con người vẫn tiếp
tục bị đồ hình ở Quyết Tiến, Hà Giang; Phố Lu, Yên Bái; ở hệ thống trại
Thanh Cẩm, Thanh Phong, Lam Sơn ( Thanh Hóa ). Hoặc khắp cùng Vĩnh Phú,
Hà Tây, Nghệ Tĩnh... Bao nhiêu đất bấy nhiêu trại tù. Không mấy người
nghe đến. Loài người khó ai nhận ra điều đau đớn đơn giản trên; kể cả
các vị lãnh đạo tôn giáo, cầm đầu các Quốc gia, người tranh đấu cho nhân
quyền, hòa bình thế giới. Chỉ mới kể một nửa nước, vùng phía Bắc Việt
Nam.
CUỐN SÁCH VÌ THẾ CẦN PHẢI VIẾT LẠI.
Sự kiện về người tù dù sao vốn dĩ cũng là vấn đề
với bản chất khép kín, che dấu, như thân phận tội nghiệp của họ. Thế
nhưng, lại có những điều tồi tệ khác xẩy ra dưới ánh sáng như những biểu
hiện công khai và hợp lý - Cũng được xem như hình thái của xã hội văn
minh và tiến bộ: Sinh hoạt chính trị và những con người đặc thù của nó -
Những người luôn luôn kêu gọi, nại đến, trưng ra những danh xưng cao
thượng Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ với những đối tượng mục tiêu có giá trị
tuyệt đối - Tổ Quốc, Dân Tộc. Tiến trình mang tính “ Chính Danh, Chính
Nghĩa ” này qua Hiệp Định dối trá ngang ngược kia cũng bị lộ hẳn toàn
thể xấu xa sa đọa với những người gọi là: Chủ tịch, Tổng thống, Trưởng
đoàn đại biểu, những ủy viên trung ương, hằng loạt đủ các thứ loại chính
khách, chính trị gia... Kể cả những kẻ gọi chung danh nghĩa “ đấu tranh
cách mạng ”... Tất cả đã bày ra trước mắt nhân dân và lịch sử nguyên
hình đám múa rối vô duyên và cực kỳ xuẩn động. Những kẻ dụng bạc giả để
mưu định buôn bán sinh mạng Quốc gia, đánh lừa hy vọng của toàn khối
miền Nam. Cuối cùng, Dân Tộc Việt đồng bị xiên ngược trên giàn lửa bởi
chính những người đồng chủng được ngụy danh nên thành “ Người cộng sản
Việt Nam ”. Chung bàn tiệc máu kia còn xuất hiện vô số những người rất
mực hân hoan và kiêu hãnh; họ lạc quan và chủ quan một cách bất bình
thường rất đỗi kinh ngạc - Những kẻ được gọi là thành phần tiến bộ, ưu
tú của miền Nam.... Ngày 24 tháng 7, 1973, tại địa điểm trao trả Lộc
Ninh, những người tuổi trẻ như Võ Như Lanh, Trịnh Đình Ban, Cao Quế
Hương, Trần Thị Lan, Trần Thị Huệ... Ngồi dưới gốc cây cao su vỗ tay hát
lời ca hàm xúc... “ Nếu là chim tôi sẽ là một loài câu trắng. Nếu là
hoa... Sẽ là một đóa hướng dương. Là người, sẽ chết trên quê hương tôi!!
” Suốt hai thập niên 70, 80, những người tuổi trẻ đấu tranh cho Hòa
Hình, Tự Do, Hạnh Phúc, Công Bằng, Huynh Đệ kia... Những người đã cùng
vỗ tay hòa nhịp với Trịnh Công Sơn hát “... Từ Bắc vô Nam tay lại nắm
tay..” Nối vòng tay lớn mừng “ bộ đội cách mạng giải phóng Sài Gòn ”;
những người tay mang băng đỏ như Cung Tích Biền, Nguyễn Hữu Đống ( Chủ
Tịch sinh viên Đại Học Kiến Trúc ), Kim Cương đi lùng Ngụy, bắt “ văn
nghệ sĩ Sài gòn phản động ” trong buổi sáng ngày 30 tháng 4, năm 1975...
Tất cả những người nầy đều được chứng kiến, hoặc tự thân dự phần vào
cuộc “ vượt chết ” bi tráng kỳ vĩ của Dân Tộc Việt - Hai triệu người xé
thân trên đường vượt biên với giá máu sáu trăm ngàn người chết. Người
Việt ra đi từ mũi Cà Mau đến biên giới sáu tỉnh phía Bắc... Hai đứa bé
tuổi vừa quá lên mười vượt biển với chiếc thuyền thúng, hướng về Hồng
Kông. Bà ngoại ôm cháu chết nghẹt trong chiếc ghe bị công an bắn chìm
nơi cầu Rạch Chiếc ngay trên Xa Lộ Biên Hòa.
Không tiếng lời nào của tuổi trẻ, của văn nghệ sĩ ở
Sài Gòn, ở Việt Nam nói về Một của tổng số Sáu Trăm Ngàn lần chết đau
thương này. Trịnh Công Sơn thêm một lần nổi tiếng là người tài hoa lãng
mạn với bài hát “Huyền Thoại Mẹ” có lời dạo đầu... “ Mẹ ngồi dưới hầm
sâu nghe từng đêm đạn nổ...” Anh ta cũng có Người Mẹ hóa điên vỗ tay
hoan hô Hòa Bình chiều đi qua Bãi Dâu, nơi chôn sống người ở Huế sau Tết
Mậu thân, 1968, khi người Cộng sản rút quân đi.
NGƯỜI CHỈ MỘT LẦN SỐNG.
NGƯỜI CHỈ MỘT LẦN CHẾT.
NGƯỜI CHỈ CÓ MỘT NGƯỜI MẸ.
CÓ NHIỀU MẸ LÀ MẸ NUÔI-ĐÓ LÀ CON HOANG.
Năm 1990, ông dân biểu một thời nổi tiếng đối lập
chống độc tài Nguyễn Văn Thiệu: Lý Quý Chung, Bộ Trưởng Thông Tin cuối
cùng của chế độ Cộng hòa miền Nam, khi trả lời với báo chí thiên tả
Pháp, đã nói lên niềm hân hoan của người trí thức dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa “...Hôm nay có điều kiện để viết hơn bao giờ hết!! ” Người này
nói thật - Anh ta là người viết chuyện đá banh khéo nhất, cũng là chủ
tiệm ăn đông khách nhất của Sài Gòn. Có một điều người nầy quên kể ra,
Anh ta là thành phần thứ ba - Đã một lần thuộc lực lượng tranh đấu cho
Hòa Bình và Hòa Giải Dân Tộc. Danh xưng đưa đến sự nghiệp vinh quang của
hiện tại. Thành Phần Thứ Ba, đứa con hoang đẻ vội mà người Cộng sản đã
đạp xuống dưới đế dép lốp xe hơi một cách thậm tệ khinh miệt ngay trong
buổi sáng ngày 30 tháng 4, 1975.
Cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng. Cái gọi là Chính
Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh
Đình Thảo, Lâm Văn Tết, Trần Văn Trà, Nguyễn Hộ, Nguyễn Thị Bình, Dương
Huỳnh Hoa... Tất cả đã cùng chung hố rác vô dụng và tầm phào, đừng nói
gì cỡ Nguyễn Long, Tôn Thất Dương Kỵ, Huỳnh Văn Trọng, Phạm Thị Thanh
Vân ( Vợ Ngô Bá Thành ). Riêng những kẻ ăn ké đồ thừa “ cách mạng chống
Mỹ cứu nước ” - loại Ngọc Lan, Chân Tín, Lý Chánh Trung... Đám ruồi
nhặng vây vo quanh tờ Đối Diện; báo Tia Sáng của nhóm Ngô Công Đức...
Được một năm ân huệ. Sau 1976, hai tờ báo nhận lệnh đóng cửa; những kẻ
gọi là “ trí thức cấp tiến yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội...”, thứ
chuyên viên xuống đường “ đòi quyền sống và cải thiện chế độ lao tù ” ở
đường phố Sài Gòn suốt thời gian của 1973, 1974 được nhận chức đại biểu
nhân dân hữu danh vô thực. Để rồi tất cả đồng bị ném đi như một loại cặn
bã tồi tệ phải loại trừ khẩn cấp - Nếu cần thiết cho vào trại cải tạo
không ngại ngùng - Điều đơn giản tàn nhẫn này không lạ - Hãy xem gương
Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường... Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm có thiếu mặt
ai trong chín năm kháng chiến chống Pháp?! Chống Mỹ cứu nước, chống
tham nhũng Nguyễn Văn Thiệu kiểu các linh mục cấp tiến dòng Chúa Cứu Thế
có là bao công trận mà đòi chuyện đền bù. Dòng Chúa Cứu Thế ở bãi biển
Nha Trang biến thành phòng ngủ và chỗ giải trí - Trừng Phạt của Thiên
Chúa hiện thực nơi năm tháng đang phải sống. Ngay hôm nay.
Cũng năm 1990 nầy, Huỳnh Tấn Mẫm bị hạ tầng công
tác vì vợ đi buôn lậu, móc nối tham nhũng, hối lộ. Chức vụ có được cũng
chẳng cao sang ghê gớm gì. Ngang với một chức Trưởng ty.
CUỐN SÁCH VÌ THẾ CẦN PHẢI ĐỌC LẠI.
“... Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam
Việt Nam sẽ lần lượt đóng hết vai trò đoản kỳ của nó. Và trận đấu cuối
cùng vẫn là giữa chúng ta với những sư đoàn chính quy Cộng sản Bắc Việt
qua tấm đệm Ba Mầu - Lá Cờ Mặt Trận Giải Phóng - Thứ phế phẩm sẽ nhanh
chóng bị vất bỏ khi trận chiến tàn cuộc ”. Hai mươi hai năm trước người
viết đã có lời cụ thể chính xác như thế và cũng khẩn thiết khẳng định:
Chúng ta có thể Hòa Giải cùng người Cộng sản Việt Nam được không? Tôi
trả lời dứt khoát - Không được!! Chúng tôi chống Cộng bởi không thể là
Cộng sản; không thể chịu được tư tưởng “ độc tôn yêu nước và độc tôn
cách mạng xã hội của họ ”. Và nếu người Cộng sản chịu hòa giải trong một
chiến thuật ngắn hạn nào đó, chắn chắn họ cũng không ngồi chung chiếu
với “ lãnh tụ ” Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu chứ đừng nói đến đám đào kép
cải lương mới nổi từ đồng lầy chính trị miền Nam -Trang 411-417, ấn bản
1974, Hiện Đại, Sài Gòn -
Ngày viết những lời trên, Người Lính Viết Văn vừa đúng ba mươi tuổi.
Hôm nay, nơi đất Mỹ, Phan Nhật Nam bị cáo buộc “ Hô
hào hòa hợp hòa giải với Cộng sản ” bởi những người không một ngày
chiến trận; không một lần tù tội và chưa hề tiếp xúc với một cán bộ Cộng
sản nào, cho là thứ Cộng sản hạng bét sau ngày 30 Tháng 4, 1975.
Mùa Hè Uất Hận nơi Đất Mỹ
Tháng 5 - 1995
No comments:
Post a Comment