Ngày gần hết, ánh nắng loáng vàng trên mặt sông, chiều ngày đầu năm váng vất khí lạnh mùa đông còn sót lại. Tôi đứng nhìn về bờ nam sông Thạch Hãn, lá cờ Vàng bay phơi phới trên bầu trời xanh thấp mây trắng. Lòng nôn nao nhẹ nhàng, tôi muốn được trở về bên bờ kia mau chóng. Toán chót của tù binh vừa được trao trả xong, cuộc họp cuối cùng của ngày bắt đầu. Nói và họp, người Cộng sản chuẩn bị, liên kết hai công việc vào nhau gọn ghẽ, thích thú.
Sự chán mứa dâng cao cùng cực trong khi tôi ngồi
xuống chiếc băng ghế cứng, một nữ cán bộ phục dịch “công tác” ngay một
ly trà bốc khói. Tất cả đều được tính toán kỹ.
Thiếu Tá Nguyễn An Giang chỉ huy trưởng địa phương
bắc sông Thạch Hãn đứng dậy tuyên bố khai mạc buổi họp, kiểm điểm công
tác trong ngày, rút ưu khuyết điểm, hoạch định công tác ngày mai. Từng
chữ nghĩa vô bổ, trống rỗng va chạm nhau đều đặn tuông ra, khuôn mặt tái
xanh đông cứng nghiêm trọng. Thiếu Tá Giang đúc kết công tác trong ngày
bằng những thành ngữ quen thuộc:
Công tác tiến triển tốt, phản ảnh được tinh thần
hòa giải và hoà hợp dân tộc, hai bên thực hiện cuộc trao trả đúng như đã
dự định trong tinh thần tích cực, khẩn trương công tác đúng theo như
điều 8(a) Nghị Định thư, chấp hành nghiêm chỉnh bản Hiệp Định chấm dứt
chiến tranh đã được nhân dân tiến bộ yêu chuộng hoà bình trên thế giới
ủng hộ...!!!
Tôi ngồi lơ đãng nhìn đám mây xám phủ xuống cuối
con sông nơi phía Ngô Xá Đông, nhớ lãng đãng lần trực thăng vận của
chiến trận mùa đông năm 1967 trên vùng đất cát đó... Cuốn sổ đặt trên
đùi được ghi vắn tắt vài con số, số tù binh được trả trong ngày... Thiếu
Tá Giang tiếp tục:
Để chấm dứt phần kiểm điểm công tác trong ngày, tôi
xin nêu thêm một điểm nhỏ để Đại Úy Nam (thay vì dùng chữ “phía VNCH”)
ghi nhận để sửa đổi lại cho phù hợp với tinh thần Nghị Định thư và Hiệp
Định ngưng bắn (!) Đấy là tiêu đề của mỗi bản danh sách nhân viên quân
sự của phía Chính phủ cách mạng lâm thời (!) được quân cảnh (chỉ có từ
ngữ “quân cảnh” không có từ VNCH) giao trả. Vì theo như chúng tôi ghi
nhận, “tinh thần của Nghị Định thư và Hiệp Định ngưng bắn” là để hai bên
miền Nam Bắc Việt Nam có cơ hội hòa giải, hòa hợp, trao đổi nhân viên
quân sự và dân sự, vì vậy tiêu đề ãTù binh Cộng Sản Bắc Việt xâm nhậpã
ghi trên mỗi bản danh sách không phù hợp với thực tế pháp lýã của tinh
thần Nghị Định thư (!) vậy nên yêu cầu Đại Úy Nam ghi nhận và sửa đổi...
A! Lại một đòn mới, kết quả của cuộc “hội ý” suốt
buổi chiều nay giữa các đầu óc cách mạng! Tôi ngồi thẳng dậy, vụt bỏ sự
lơ đãng,chuẩn bị nghênh đón đối phương. Đ...m, đúng là Việt Cộng. Tôi
bực dọc chửi thề trong bụng. Vì hôm nay (19-2-1973) là ngày trao trả thứ
ba của đợt II tại địa điểm này, bờ bắc sông Thạch Hãn. Từ ngày đầu của
cuộc trao trả (12-2) tại các địa điểm khác như Lộc Ninh, đâu đâu, Quân
cảnh VNCH vẫn dùng tiêu đề đó trên các bản danh sách, và rõ ràng hơn ba
ngày trao trả trước tại đây, các danh sách với tiêu đề đó vẫn không đặt
nên vấn đề, nhưng hôm nay... Lại dở trò mới rồi... Tôi tập trung chú ý
lại. Khi Thiếu Tá Giang ngồi xuống thì đến Thiếu Tá Vầy trưởng tổ Liên
hợp phe Mặt trận giải phóng thuộc Tiểu ban Tù Binh Trung ương phát biểu ý
kiến. Thêm một màn lập lại:
Cám ơn quí vị trong Ủy ban Kiểm soát và Giám sát
Quốc tế đã tích cực tham gia vào công tác kiểm soát cuộc trao trả nhân
viên quân sự... Thể hiện tinh thần hòa giải hòa hợp (!). Cám ơn chính
quyền địa phương (?) đã tổ chức chu đáo (!) và cuối cùng là “điểm nhỏ”:
Theo điều 1 và 2 của Nghị Định thư về Tù Binh thì chỉ phân loại ba thứ
tù binh: Nhân viên quân sự và dân sự của Hoa Kỳ và các nước ngoài, nhân
viên quân sự và dân sự hai bên miền Nam Việt Nam vậy ý kiến của Thiếu Tá
Giang là một thực tế (!) phản ảnh đúng tinh thần Nghị Định thư nên yêu
cầu Đại Uý Nam ghi nhận và sửa đổi!!!
Thiếu Tá Vầy ngồi xuống, bật cái hộp quẹt Thăng
Long đốt điếu thuốc lá Điện Biên khói bay khét lẹt, rung đùi lắng tai
nghe Đại Úy Lân của Bắc Việt phát biểu ý kiến... Cám ơn quí vị... Tinh
thần hòa giải và “điểm nhỏ” của Thiếu Tá Gang vừa nêu ra... Theo điều 1
và 2 Nghị Định thư!! Một lập lại lần thứ ba qua người phát biểu!! Một
lập luận được ba người lập lại trong nghiêm trọng, được dịch lại ba lần
bởi một thứ “broken English” rất vất vả. Vòng tròn người ngồi nghe
nghiêm trang, những cái đầu gục gặc tán thưởng đồng ý lẫn nhau, hai anh
Hung Gia Lợi và Ba Lan gật mạnh đầu hơn hết, tra cứu cuốn sổ nhỏ để tìm
điều 1 và 2 Nghị Định Thư... Những đôi mắt đăm chiêu lướt vội trên giòng
chữ, những xì xào to nhỏ xác nhận ãthực tếã của tù binh căn cứ trên
điều khoản Nghị Định thư... Tất cả màn kịch khôi hài gian trá được đồng
tình khai triển tối đa. Đợi lúc Đại Úy Lân và tên thông dịch viên ê a
luận lý điều 1 và 2 Nghị Định thư tôi làm việc thật mau trong đầu...
Điều 1 và 2 Nghị Định thư quả thật qui định không có tù “Cộng Sản Bắc
Việt” trong đó, suốt bản Hiệp Định ngưng bắn cũng không có một chữ nhắc
đến Quân đội Nhân dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa... Vậy thì trả
lời như thế nào? Căn cứ ở đâu?... Bản Hiệp Định hay là tấm màn nói dối
vĩ đại đã được cả thế giới tán thưởng!!! Đại Tá Thompson của phái đoàn
Hoa Kỳ đẩy đưa vài lời cám ơn, nêu con số các chuyến bay trong ngày và
kết thúc bằng một lời cám ơn khác. Người bạn đồng minh độc nhất không
thể giúp gì tôi hơn được vì hôm nay 18-2, Bắc Việt vừa thả đợt 2 tù binh
Mỹ ở sân bay Gia Lâm: Tù binh Hoa Kỳ, gánh nặng lớn cuối cùng của chiến
tranh Việt Nam cần phải giải quyết nhanh chóng trước tiên.
Tôi đứng dậy. Nắng cuối cùng của ngày đầu năm đã
tắt, vùng núi đồi phía tây La Vang mờ trong sương xám, ngọn cờ Vàng ở
đầu cầu Quảng Trị bay phần phật. Khói đạn pháo binh Bắc quân bắn vào
vùng Tích Trường, Như Lệ của Nhảy Dù Việt Nam dâng cao từng cột... Hình
ảnh xa nhưng vang dội đau đớn trong lòng. Tôi lâm chiến:
Thưa quí vị, tôi xin được thông qua các con số tù
binh do chúng tôi trao trả trong ngày mà quí vị đã tận tường, tôi cũng
xin thông qua các ưu điểm mà quí vị vừa xác nhận. Tôi xin đi thẳng vào
“điểm nhỏ” mà Thiếu Tá Giang vừa nêu ra... Đó là “Tiêu đề Tù binh”. Thưa
quí vị, tiêu đề “Tù binh Cộng sản Bắc Việt xâm nhập” hay “Tù binh Cộng
sản hồi kết” hay “du kích” là những tiêu đề hiện thực tính chất thực tế
về người tù binh đã được Quân cảnh Việt Nam Cộng hòa thiết lập khi hoàn
tất lý lịch căn cứ trên cung từ của mỗi người tù. Cung từ của mỗi tù
binh được lập nên, đúc kết từ những câu hỏi liên quan đến các yếu tố cụ
thể sau đây: Sinh quán của tù binh, ví dụ như tù binh đó sinh ở Bạc
Liêu, Sóc Trăng, Quảng Ngãi hay ở Thanh Hóa, Ninh Bình, Nghệ An. Đơn vị
của tù binh đó, ví dụ như tù binh thuộc các đội du kích ở Tân Bình, Gia
Định hay các Công trường 5, 7, 9 của lực lượng võ trang thuộc Mặt Trận
Giải Phóng miền Nam hay các Sư đoàn 308, 320, 324 B, 325 của Quân đội
Nhân dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cung từ của tù binh cũng xác
định nơi xuất phát của đơn vị mà tù binh đó trực thuộc. Ví dụ như tù
binh du kích thuộc xã Xuân Thới Thượng quận Tân Bình tỉnh Gia Định xuất
phát từ mật khu Lý Văn Mạnh nằm giữa Long An, Hậu Nghĩa, Gia Định, hay
tù binh thuộc Công trường 7 xuất phát từ vùng Mõ Vẹt vượt biên giới Việt
Miên tấn công vào Lộc Ninh, tràn xuống An Lộc. Và tù binh có tiêu đề
“Cộng sản Bắc Việt xâm nhập” thì được chỉ định cho những người phát xuất
từ Nghệ An, theo đường mòn Hồ Chí Minh hay đường dây “Xã hội Chủ nghĩa”
xuống nam Lào đến Tchépone theo đường số 9 vượt biên giới Lào Việt vào
tham chiến tại mặt trận Trị Thiên. Cụ thể là tù binh thuộc Sư đoàn 325
Tổng trừ bị Quân đội Nhân dân Bắc Việt đang có mặt tại đây, tỉnh Quảng
Trị của VNCH... Hiện thời, đã ở đây rất lâu.
Tôi ngừng nói, đưa mắt đi một vòng, Thiếu Tá Giang,
Thiếu Tá Vầy, Trung Tá Martin (Hung), Đại Tá Garrick (Gia Nã Đại)...
Những ánh mắt khó chịu, những tia nhìn phẫn nộ... A! Ra tất cả đều muốn
tránh xa sự thật, tất cả đều muốn bỏ qua sự kiện có một nước Nam Việt
Nam, mọi người đều đồng ý thực hiện một màn dối trá bịp bợm theo khuôn
mẫu của Hiệp Định ngưng bắn. Tờ cam kết được cả thế giới hoan nghênh. Mà
giá trị đích thực chỉ là mảnh giấy tráo trở chứng nhận trò bịp lớn của
thế kỷ và che dấu sự thật đau đớn của người Việt Nam.
Tôi hơi khép đôi mi, hình như những gân máu nằm
trong mắt nổ to, căng phồng những lượng nước mắt phẫn nộ. Phía trái bên
kia con sông thành phố Quảng Trị tan vỡ như một dấu tích ngàn đời không
nguôi ngoai, Cổ Thành, Tòa Hành Chánh, nhà thương... Đống đá vĩ đại bi
thương kia chỉ cách năm trăm thước, như ngọn lửa đốt cháy thêm lòng thù
hận... Tôi gằn mạnh từng chữ, tiếp tục:
Và hơn ai hết, quí vị đã biết rõ, biết rất rõ những
sự thật sáng như ánh mặt trời mà tôi vừa kể đến. Điều 1 và 2 của Nghị
Định thư chỉ là một trò chơi chữ nghĩa muốn xóa tan một sự thật. Đó là
có một nước Bắc Việt xâm lăng, tấn công miền Nam Việt Nam! Nếu quí vị có
một trí nhớ khả dĩ, quí vị hãy nhớ năm 1966 chúng tôi đã phóng thích
một số tù binh thuộc quân đội chính qui Bắc Việt về bên kia bờ bắc sông
Bến Hải với những danh sách được thiết lập cùng tiêu đề này... Từ năm
1966 đến nay tính chất, lý lịch của những người tù binh căn cứ trên các
yếu tố cụ thể vừa kể không thay đổi, vậy hôm nay không có lý do gì bắt
chúng tôi phải xóa bỏ tiêu đề đó. Thế nên tôi xin lập lại: Chúng tôi vẫn
tiếp tục duy trì tiêu đề “Tù binh Cộng sản Bắc Việt xâm nhập...” cho
đến ngày chót của đợt trao trả tù quân sự đối với những tù binh gốc quân
đội Bắc Việt.
Tiếng xì xào bất mãn, những ánh mắt toé lửa không
che dấu. Tôi đứng thẳng chịu đựng sự tấn công của bốn hướng, chờ đợi
những phản ứng bùng nổ... Lê Thanh Lân (Bắc Việt) nghiêng vai qua Vầy
(Mặt trận giải phóng), cặp mắt màu xám chớp chớp, chiếc đầu đội nón ông
sao gật gật theo những lời của Vầy. Thiếu Tá Vầy đứng dậy:
Đại Úy Nam đã trình bày dưới một dạng thức vô lễ, mặc dù ở đây, Đại Úy Nam là người nhỏ tuổi nhất, nhỏ cấp bậc nhất...
Tôi cười nhạt, đứng phắt dậy nói trong tiếng hét:
Ở đây, chúng ta họp nhau lại để làm những công việc
của lịch sử không phải để phân định cấp bậc và xét xem phẩm chất của
mỗi cá nhân trên khía cạnh luân lý...
Anh thông dịch viên Chi lắp bắp hỏi... Làm sao
dịch, có phải dịch không? Chẳng cần. Tôi ngồi xuống với một hân hoan tội
nghiệp. Trước hay sau sự thật cũng đã bị đồng tình chối bỏ... Ý nghĩ
xẩy đến làm rả rời, trầm hết xuống tất cả mọi ồn ào. Tôi nén tiếng thở
dài...
Trở về bờ Nam, trời mù sương, chiếc máy bay bốc
khỏi bãi đáp đưa toán Ủy ban Quốc tế và Ban Liên Hợp Quân sự trở về Huế,
tôi đứng lại giữa đám gạch ngói và những người lính thủy quân lục chiến
đang chuẩn bị lại tuyến phòng thủ đề phòng đêm xuống lũ giặc bắc bờ
sông. Đi bộ về ngã ba Long Hưng xuyên qua những đống đá lớn trên những
con đường trơn trợt. Tôi đang đi trong lòng Quảng Trị, thành phố có sức
sống lâu dài kể từ ngày Chúa Nguyễn vào Nam Đây là gì nhỉ? Đứng tần
ngần trước một “ngôi nhà” mà chiếc mái bê tông đã bị bẹp xuống sát nền
đất, dãy cửa bị ép lại thành một đám sắt vụn như chiếc lò-xo bị rối...
Phải chăng đây là quán sách ở góc đường Gia Long? Tôi nhìn về phía Cổ
Thành rồi so sánh lại... Cũng không thể nhận ra ngôi nhà mà suốt năm
1967 đã nhiều lần la cà qua lại. Tôi đi trong thành phố Quảng Trị cố vận
dụng tối đa trí nhớ cũng không thể gom đủ chi tiết về một chỗ ở đã qua
sống cùng trong thời gian dài. Bên kia bờ sông, năm trăm thước bề rộng,
cuộc đấu lý vừa qua như một khinh bỉ không lường. Lương tâm trung trực
của con người ở đâu?? Tôi không hiểu khi Kissinger và Thọ ngồi phân tích
từng chữ, gọt dũa từng dòng của Hiệp Định ngưng bắn, họ có ý thức đang
cùng nhau thực hiện một dối trá ghê tởm chi phối mười lăm triệu người
dân miền Nam Việt Nam, các bộ tham mưu của các văn phòng chính trị khi
phân tách, nghiên cứu tìm hiểu có ai đã phải bật cười vì tính chất hồ đồ
độc địa của những hàng chữ vô nghĩa có tác dụng che đậy tội ác vĩ đại.
Tội ác cao như núi, tội ác ngập ngụa như biển máu, như rừng xác người đã
nằm xuống trên chín cây số của Đại Lộ Kinh Hoàng, của dãy người chết
nằm rải rác dưới những gốc cao su dọc đường 13... Cả thế giới đều bịt
mắt, toàn thế giới vỗ tay, rung chuông, mở rượu, tung dây ngũ sắc để
mừng hòa bình Đông Dương, đón mừng Hiệp Định ngưng bắn, chuẩn bị cho
Nixon lãnh giải Nobel Hòa Bình, đồng công nhận Kissinger là “Ông Thế
Giới” và chính phủ Hà Nội, tập đoàn cộng sản Bắc Việt là những kẻ tích
cực góp phần xây dựng hòa bình thế giới... Đau đớn biết bao nhiêu. Đau
đớn quá!!
Hiệp Định ngưng bắn tái lập hòa bình cho Việt Nam.
Hàng chữ như một trêu ghẹo độc ác nhảy múa trong màn mưa, trên gạch
ngói, những chữ rơi rớt lổng chổng trên con đường phố bị bóc hết nhựa
hằn từng vết bùn đỏ chạch. Từ tờ đầu đến giòng chữ cuối không có một
chương, một dòng ấn định rõ rệt sự kiện Bắc Việt đã xâm lăng miền Nam.
Không một giòng xác định Quân đội Nhân dân của nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa rút về phía bờ Bắc sông Bến Hải trừ điều 5, nói mơ hồ về sự rút
quân của các quân đội không phải của hai bên miền Nam Việt Nam. Đau đớn
và độc địa quá, đám lính Bắc chỉ cần qua một buổi học tập là biến thành
quân đội giải phóng, nên người Quảng Trị sơ tán vào núi theo lực lượng
vũ trang của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam (!!) Ai trên
thế giới sẽ gánh chịu sự lừa dối nham hiểm thô bạo nầy. Hòa bình nào có
được khi đám lính của các Sư đoàn 324, 325, 308, rặt một lớp người nói
tiếng Bắc, dưới hai mươi tuổi, cố chấp, cuồng sát, cuồng tín biến thành
“người Quảng Trị” kỳ quái trên, để sẵn sàng đào đường, chùi súng, sửa
phi đạo, thiết lập giàn phóng hỏa tiễn trực chỉ vào bờ Nam sông Thạch
Hãn?? Đây chính là tội ác của cả thế giới, từ anh trí thức bên trời Âu
đến lũ ngụy hòa bình đang lúc nhúc tràn ngập ở miền Nam, từ tên thủ lãnh
biển lận của thời đại thực dân còn sót lại ở Ba Lê đến anh chánh khách
hèn mọn chờ thời làm con cờ lót đường trong buổi nhiễu loạn. Tất cả thế
giới đang đồng lòng che mặt hóa trang dự buổi dạ vũ máu trên thịt xương
người Việt.
Hay thật, sự lừa dối khi đến mức siêu đẳng đã biến
thành sự thật. Tội ác khi đạt đến mức tinh vi biến thành hành động cứu
rỗi, phụng sự con người. Kim Dung khi tạo ra Vi Tiểu Bảo làm trò cười
cho độc giả, chắc hẳn đã ý thức được sự tan vỡ của thời đại này, trong
đó những tên dối trá, những kẻ cường bạo chi phối, điều động đại cuộc.
Và ghê tởm hơn, cả một khối đông thế giới đều đồng lòng xưng tụng tội
ác...
Tôi đi trong Quảng Trị tan vỡ, đi trong mưa phùn,
trên lầy lội, quãng đường dài xa xôi không còn lý hội... Cơn đau xót,
nỗi phẫn nộ, trí căm hờn như át hẳn mưa rơi như xóa tan trời gió. Giông
bão trong lòng nghe thắm thiết đau đớn mãnh liệt tưởng như dòng khí độc
tác hại hết giác quan... Làm gì được đây? Tôi làm gì được hở?!!
Tháng 3-1973 - Quảng Trị
No comments:
Post a Comment