Đến khoảng xã Long Sơn, quận Cần Đước tàu đổi hướng
cập vào bờ, lính ùa lên... Bỏ bờ mẫu lội ngang ruộng mà lên, coi chừng
mìn... Lấy đà từ sàn tàu tôi nhảy lên đám lau sậy, dừa nước ngổn ngang.
Bám được vào một bờ đất leo lên. Giàn đội hình hàng ngang, trung đội
tiến lên khoảng hai trăm thước, dừng lại bố trí đợi đại đội lên sau. Cởi
nón sắt ngồi xuống trên một mô đất nhìn ra xa, ruộng miền Nam thật đẹp,
màu xanh dài bất tận, lúa khỏe mạnh, thơm nồng nàn... Chẳng bù với miền
Trung, quê hương tôi, không có đất, chỉ có cát, cát mệt mỏi và cằn cỗi,
không phải những bờ cát vàng đẹp đẽ cuả bãi biển trưởng giả, cát của
quê tôi xám xịt, loang lỗ đây đó dăm ba cụm xương rồng, về mùa hạ gió
Nam thổi luồng như đốt lửa, con trốt lớn chạy dài lừng lững như bóng ma.
Tiểu đoàn chia làm hai cánh quân đi song song với
con lộ đất đỏ. Tuyệt đối không được đi trên bờ ruộng. Cứ nghe hoài hoài
một lời dặn dò.
- Du kích vùng này nổi tiếng gài mìn, thiếu uý thấy gì lạ thì đừng đụng vào.
- Tao biết rồi, mày lo cái thân mày trước đi.
Đến giờ này tụi lính vẫn xem tôi như là một "mặt
mới" đợi có dịp để lên mặt rành rẽ. Tôi kiểm soát lại hướng đi bằng địa
bàn và bản đồ, kêu anh Trung sĩ trung đội phó:
-Trước mặt khoảng năm cây số có cái đồn phải không?
Tôi nói trống rỗng, vì nếu dùng tiếng mày tao thì
tội nghiệp cho y, nhưng nếu gọi anh hay ông thì y lại coi thường. Nhà
binh mệt nhọc thế đấy!
- Vâng, có đồn Long Sơn.
- Đồn còn người giữ không?
- Nghe nói hình như còn và vừa bị đánh nên tiểu đoàn mình đi hành quân vùng này để truy kích.
Đúng là một loại lính cũ, luôn luôn dóng tai lên để
rình rập nghe ngóng tất cả, ẩn dấu sau một nét mặt lầm lì không nói.
Tôi tưởng câu hỏi cốt để gây thêm tự tín, hóa thành một đòn phản. Viên
trung sĩ đi ra xa, mặt thoáng vẻ hài lòng.
- Anh ra coi lại thằng vác đại liên, phía trái mình không có quân bạn. - Tôi nói với.
Khoảng bốn giờ chiều, đoàn quân đi ngang đồn Long
Sơn, những người lính Nghĩa quân đứng trong hàng rào nhìn ra ngơ ngác.
Họ nhìn toán quân chúng tôi như điều mới lạ đến từ nơi đầy ánh sáng. Bao
nhiêu lâu sống trong chiếc đồn trơ trọi này, họ đã thành những kẻ thật
xa với thế giới bình thường. Chiếc đồn chỉ cách quốc lộ hơn mười cây số
đường chim bay còn thê thảm như thế, huống gì những tiền đồn ở cao
nguyên, ở cuối cùng một cửa biển thì như thế nào? Tôi đâm ra hằn học với
tự tin ngạo mạn của lính tôi.
Đóng quân đêm. Tôi nghĩ mênh mang. Chiến tranh là
vô ích như thế, từ một nơi xa xăm đến để chết, ăn, ngủ trên một vùng đất
lạ. Nhớ đến tấm ảnh trong cuốn Guerre Morte... Một anh lính Pháp ngồi
đun nước với lời chú: "Jean ne fait rien dans la guerre, subitement, il
mort". Tôi chỉ ở qua một ngày trong chiến tranh, và như vậy còn rất lâu
mới có kết thúc. Những ngày sau tiếp tục. Long Sơn rẽ phải, lên đông bắc
là Rạch Kiến, phố chợ hoang vắng, chiếc cầu bắc qua con kinh bị đốt
cháy sáu ngày trước còn loang lỗ vết than. Có một tiệm bán nước ngọt với
đá, tôi uống một hơi ba ly, không biết là chanh muối, sirop hay cái
gì... Chỉ biết đây là nước đá.
- Làm sao người ta mua nước đá được?
- Người ta mua từ Cần Giuộc, Cần Giuộc đi Chợ Lớn rất dễ dàng.
Người lính đứng bên cạnh tôi trả lời. Cần Giuộc,
một địa danh nghe lạ hoắc. Miền Nam này thật lạ lùng, một nơi chốn đầy
dẫy chết chóc vẫn có những quán cóc bán đồ nhậu, sạp bán báo, khốn nỗi
chỉ bán toàn loại báo hạng bét, trang trong nói chuyện đào kép cải
lương. Tuy vậy, tôi cũng mua một tờ xếp vào túi quần, chút thành phố có ở
trong đây.
Một tuần đi qua không có gì, biến cố duy nhất mỗi
ngày là binh sĩ đi Khinh binh thường vướng phải mìn. Việt Cộng thật tinh
quái, họ gài mìn vô cùng khôn khéo, dò biết lính đơn vị tôi không đi
trên bờ ruộng nên mìn được gài ngay trong bụi rậm ở bìa làng rồi giăng
dây thật dài. Lính vào làng phải dàn hàng ngang để dễ dàng khi xung
phong tất nhiên phải vướng dây bẫy. Được an uỉ, mìn là loại nội hóa do
du kích chế tạo chẳng làm chết được ai. Số thương binh được di tản không
có người nào bị nặng. Mỗi lần có tiếng nổ ở đầu hàng quân, binh sĩ ở
đàng sau tỉnh bơ, la lối ầm ĩ...
- Rồi một con đã đi!
- Đ..m..Lại một thằng được ăn Tết ở nhà.
Người thương binh được di tản lui về đàng sau, ngang qua đồng bạn khi bị trêu chọc còn há mồm để chưỉ lại.
- Bị vào chân mà về "chọi" là rút gân nghe con, ráng baœo bà xã nhịn đi.
- Mẹ mày... - Lời nói buồn cười xóa tan vẻ bi thảm
của dòng máu đang chảy. Đôi khi tôi cũng muốn bị nhẹ một phát vào chân.
Nhảy dù gì đi ngang dọc hoài, chán bỏ mẹ!
Ngày thứ tám của cuộc hành quân, khi tiểu đoàn tiến
qua rạch Long Sơn, chiếc cầu bằng sắt đã bị giựt sập. Đại đội 72 đi đầu
chỉ định một trung đội tiến sát bờ sông để tìm phương tiện vượt sông.
Ầm, một tiếng nổ thật lớn, cột nước bắn cao lên hơn mười thước, có tiếng
súng bờ bên kia bắn qua, súng Việt Cộng. Lần đầu tiên tôi nghe tiếng
súng của đối phương... Cắc... cù... Tiếng đạn rít trong gió. Tôi thoáng
một giây sợ hãi cứ tưởng chừng như viên đạn như vô tình đang bay về
hướng mình. Và phản ứng thật tự nhiên: Thấp hẳn người xuống. Lẽ tất
nhiên tôi không đến độ nằm bẹp xuống nhưng rõ ràng có một phản ứng không
báo trước kéo thân thế thấp xuống, nhỏ lại. Nhỏ hơn nữa... Súng của
Việt Cộng tiếp tục nỗ dọc theo con đường chúng tôi đang di chuyển.
- Trung đội bố trí phía tay phải.- Tôi hét lớn.
Toàn thể trung đội nhào xuống một chiếc rạch nhỏ trông sang cánh đồng.
Tôi yên tâm vì đã đứng được trong lòng đất. Đất vật che chở cho con
người trong những giờ phút nguy nan. Chạm phải bờ cỏ ướt, tôi có cảm
giác như ôm một vật thân yêu. Cảm giác này sau này trong những giờ phút
ngặt nghèo nhất, tôi được thấy lại. Mỗi lần vào được trong một chiếc
hầm, tôi cảm thấy tự tin hẳn lên, tin tưởng mình có thể sống sót được
trong hết mọi hoàn cảnh. Một nhân vật của Georghiu trong " La second
chance " khi biết mình sắp chết trước họng súng của bọn sát nhân đã có
lực sống mãnh liệt: Tự dùng tay để đào cho mình một chỗ trú ẩn, chết khi
tay còn giữ nắm đất! Đất cao cả và nhiệm màu bao nhiêu.
Trận đụng độ kéo dài chừng nửa giờ, du kích tháo
chạy, chúng tôi vẫn chưa qua sông, tôi đi về phía đại đội chỉ huy. Bác
sĩ Đạm đang băng bó cho thương binh, một xác chết được gói vào poncho,
cột chặt bởi hai vòng băng cứu thương, gọn gàng và im lìm. Lần đầu tiên
tôi đứng gần thây ma... Người chết trong chiến tranh đấy. Trở về chỗ bố
trí của trung đội, thấy cần thiết một điếu thuốc hơn bao giờ hết.
Đêm xuống, hào hứng của những ngày đầu hành quân
không còn nữa. Tôi chưa quen với đời sống hung bạo và nhàm chán này.
Những người lính xung quanh sau khi căng võng nằm phì phèo điếu thuốc
mãn nguyện trong im lặng. Tôi chưa quen với điếu thuốc và niềm lặng lẽ
cô đơn đó, tôi còn là thanh niên đang lớn, cần có bè bạn, cần người để
tâm sự, những tâm sự tầm thường, những vụn vặt tình cảm... Ở đây không
có bạn, trong không khí lặng lẽ đầy đe dọa, tôi cô đơn như cây nhỏ trong
chiều mưa.
Mười lăm ngày qua, nhận được lệnh đi học lớp Rừng
Núi Sình Lầy ở Dục Mỹ, một lớp học hành hạ thể xác và đầy đọa tinh thần
con người. Lúc ở trong trường tôi đã qua trung tâm này trong ba tuần lễ,
đã biết thế nào là một lớp học kéo dài trong cực nhọc với thời gian hai
mươi giờ trong một ngày. Nhưng đối với hoàn cảnh bây giờ, tôi không đủ
kiên nhẫn để kéo dài sức chịu đựng trong loại hành quân này. Sao cũng
được, miễn là đi khỏi vùng đồng ruộng đã bắt đầu quen thuộc. Khi chiếc
xe qua cầu Gò Đen thấy Sài Gòn hiện ở xa, đột nhiên tôi muốn đập phá một
cái gì...
Về đến hậu cứ, đúng cung cách của một tên lính, tôi
đi đến khu gái điếm ở cuối phố, âu đó cũng là một thói quen. Tôi cần
tập nhiều thói quen của đời sống này. Trên chiếc xe đi về Sài Gòn, tự
nhiên thấy già - già hẳn đi...
Tháng 1-1964. Long An
Chương 4: Người Chết Dưới Chân Chúa
Sông
Tiền Giang mênh mông như bể, chiếc phà lớn chuyên chất ba GMC, vài
chiếc xe du lịch, bềnh bồng mang chúng tôi qua sông lẫn với đám hành
khách áo quần màu sắc. Họ dồn về một phía, nhìn lũ người gươm đao thật
xa cách. Tôi ngồi trên mui tàu thả từng mẩu giấy vụn xuống dòng nước,
trí não lãng đãng như bọt sóng.
Đoàn xe rời quốc lộ 4 rẽ về phía phải theo con
đường đỏ hướng phi trường Trúc Giang. Qua ngôi trường tiểu học quận, một
dẫy quan tài sắp lớp, mùi thây chết bốc lên ngây ngấy. Biệt động quân -
tiểu đoàn 41... Nghe nói hình như Tiểu đoàn trửơng hay Tiểu đoàn phó bị
chết. Lính ở trên xe xì xầm bàn tán với vẻ thản nhiên. Họ không biết
chiến trận đã đến hồi khốc liệt, nên chiến đoàn Dù gồm tiểu đoàn chúng
tôi và một tiểu đoàn bạn đã có mặt tại vùng hành quân từ ngày trước. Đến
phi trường nơi đặt bộ chỉ huy của khu chiến thuật Tiền Giang, trung tâm
hành quân của cuộc hành quân, chúng tôi được lệnh ngủ tại đây để chờ
ngày mai trực thăng vận vào vùng hành quân. Tôi chưa được dự trận lớn,
nên không có ý niệm về những gay go sắp đến trong ngày mai, bình thản
ngủ một giấc yên lặng với kết luận: Trực thăng vận đối với Nhảy dù chỉ
là trò đùa, không có gì mới lạ.
Ngày 22, 8 giờ hai pháo đội đặt ở phi trường hướng
súng về bãi đáp nhả đạn liên hồi để dọn bãi. Lấy cái chết của phe địch
để làm an toàn cho phe mình, luật của chiến tranh quả tàn khốc. Tiếng
súng dọn bãi vừa dứt, ba mươi chiếc trực thăng đồng bốc lên một lượt
mang hai đại đội 71 và 72 vào trận địa.
Báo cáo xuống bãi tốt, bình yên. Phần còn lại của
tiểu đoàn được trực thăng vận tiếp theo. Toàn bộ tiểu đoàn đã xuống đủ,
hai đại đội 71 và 73 dẫn đầu đơn vị, di chuyển được mười lăm phút. Súng
nổ! Đụng rồi! Đụng rồi... Lính dáo dác, máy truyền tin chuyển lệnh nghe
loạn xạ. Phía trước tiểu đoàn súng nổ lẫn lộn, tiếng khô và cứng của ta,
sắt nhọn của địch... Đại đội 72 rút lên bố trí về phía phải của đại đội
73. Lệnh cho đại đội chúng tôi lên thật nhanh. Ngang qua chỗ đứng của
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng, một tiếng nổ thật lớn nháng lửa ngay trước
mặt, quả đạn 57 ly nổ ngay khi ra khỏi nòng, người phụ xạ thủ bắn tung
ra đằng sau, một bàn tay bị đứt. Ông tiểu đoàn trưởg hét lớn qua màu
khói... Trung đội anh chạy ra cái nhà tranh...
Như vậy là đụng độ lớn, người bị thương nằm la liệt
ở dưới các rãnh dừa nước. Toàn đang đứng trong một giao thông hào chỉ
trỏ quát tháo. Phía tay trái nơi xa có tiếng lựu đạn nổ và tiếng hô xung
phong. Trung đội tôi ép phải, hướng tiến bây giờ thẳng góc với các con
kinh nhỏ, nên chúng tôi chỉ có thể nhảy từng bước thật dài trên bờ kinh,
một cái nhảy hụt tôi rơi vào đường mương cùng với hai người khinh binh.
Bám cỏ bò lên, xác hai tên Việt cộng nằm tênh hênh, một xác bị banh nát
ngực, xác kia nằm sấp, không rõ... Người chết, lần đầu tiên tôi chạm
phải - một thây chết của đối phương.
- Lên đi tụi mày, thằng nào trốn đàng sau tao bắn gãy giò...
Tôi quát tháo cũng ra gì, mấy người lính đi chậm dớn dác tìm lối qua rạch. Họ không nhảy qua được vì mang đồ quá nặng.
- Đ.m... Nhảy qua được không? Thường ngày sao liến xáo quá cỡ, hôm nay lại chậm như rùa.
Tôi chửi mắng om sòm. Trung đội đến bờ làng dừng
lại bố trí trông ra cánh đồng trống. Ngồi dựa vào một gốc dừa, tôi thấy
mệt vì phải quát tháo quá nhiều, nhớ lại lời chửi tục. Tôi đã thành một
người lạ nào đấy. Địch từ phía trái chạy vọt qua, bóng áo đen ẩn hiện
đàng sau rặng dừa xanh bên kia cánh đồng. Bắn! Bắn! Trung đội tôi khai
hỏa ròn rã. Một vài bóng áo đen ngã xuống. Hơi thuốc súng, hơi bùn lầy,
máu người chết xông lên ngây ngấy.
Sáu giờ chiều, tiếng súng phía bên trái, hướng đại
đội 71 hoàn toàn chấm dứt, trực thăng tải thương bắt đầu đến, khói màu
xanh làm dấu bãi đáp bốc lên mờ mịt làm đặc không gian đang ngã vào đêm,
rừng dừa màu xanh thẩm lại. Tiếng súng vu vơ của địch bắn lên máy bay
khi tháo lui. Tôi ngồi dựa gốc dừa, mệt mỏi đến tột độ, một tên lính mò
lại bên cạnh.
- Thiếu uý ăn cháo gà?
- Cháo gà?
- Dạ, em bắt được, nó còn ấp trứng...
- Thôi mày cho tao quả trứng, tao ăn cháo không nổi.
Khi lính trong trung đội xịt xoạt ăn cháo, tôi đi
lui về phía xác hai tên Việt cộng. Tên nằm sấp bây giờ lật ngược lại, có
lẽ đấy là cử động cuối cùng của nó trước khi chết. Tôi đặt tay lên da
người chết lạnh tanh. Đêm xuống, chúng tôi trải poncho nằm trên bờ rạch,
không cởi giày, địch có ý tấn công lại nên phải đề phòng.
Tiểu đoàn tiếp tục truy kích, hôm nay đại đội tôi
đi đầu, trung đội tôi dẫn đầu đại đội, chúng tôi đi dọc một con kinh
lớn, rừng dừa xanh ngút tầm mắt, thôn xóm trù phú nhưng không một bóng
người. Chúng tôi dè dặt từng bước đi.
- Hầm có dấu chân người! Tản rộng ra chung quanh, một người đến xem mà thôi -Tôi ra lệnh.
- Ai ở dưới, đi lên!... Im lặng...
- Lên không tao ném lựu đạn xuống! Thiếu uý, cho em ném lựu đạn xuống. Tên lính hỏi ý kiến.
- Không, mày bắn xuống mà thôi.
Tên lính lanh lẹ bắn xuống một tràn thompson, có tiếng rên khe khẽ.
- Lên không bắn nữa. Đưa tay lên trước...
Tôi nín thở, một chiếc đầu bạc phơ từ từ nhô lên
khỏi miệng hầm, ông lão bế một bà lão lên theo. Vừa ra khỏi hầm ông lão
chấp tay xá bốn hướng xụt xùi khóc lóc, bà lão nằm vật xuống, ở đầu có
một vết thương.
Đến buổi trưa, tôi hoàn toàn kiệt lực như một mũi
tên rơi xuống cuối đường bay. Hình ảnh hai mái tóc bạc nhô lên từ miệng
hầm, nét mặt hốt hỏang của hai tên địch chưa quá mười sáu tuổi lôi lên
từ một đám bèo, một tên còn đang ngậm một búng cơm... Những hình ảnh đó
bây giờ cộng thêm cảnh chết cuả hai vợ chồng và ba đứa con ở trước mắt
tôi. Họ chết từ ngày hôm kia, khi địch đặt bộ chỉ huy ở khu nhà thờ,
người chồng là ông Từ giữ nhà thờ đã đem cả gia đình vào trốn dưới cái
bệ thờ Chúa.
Tượng Chúa ngã nghiêng, tượng Thiên Thần vỡ tung
tóe, hai bàn tay trắng bằng đất nung lăn lóc trên sàn nhà. Khi tôi cúi
xuống nhặt hai bàn tay này thì khám phá ra năm xác chết trên. Họ chết
ngồi, hai vợ chồng ngồi sát nhau ôm ba người con trước ngực. Họ chết vì
bị sức ép nên thân thể vẫn còn nguyên vẹn, nét mặt in vẽ hốt hỏang. Tôi
ra lệnh kéo xác họ ra sân.
Giáo đường bây giờ im vắng, tượng Chúa linh động
trong vị thế nghiêng ngã, nắng ở ngoài không rọi vào, không khí nặng nề
lạnh ngắt... Tôi ngồi xuống trên chiếc ghế, hỏi thầm...
- Thượng-Đế, Ngài có thật đấy chăng?
Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà ở của
những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô gái còn phơi phới
bay trong gió... Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng
thật sáng rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào
tim, thật buồn. Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết qủa bi thảm,
nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết khi chiếc áo còn bay trong gió vang
vang nơi trí não tôi như một tiếng kêu thê thảm không dứt âm. Hai ông bà
cụ già, tên Việt cộng trẻ, người cha và người mẹ, họ đã sống, đã chết
dù sao cũng có chủ đích, có chọn lựa, cũng đã qua gần hết cảnh sống. Cô
gái chết bất ngờ không báo trước, yêu đời như màu tươi của chiếc áo. Tôi
choáng váng ngộp thở, người lao đao trong một niềm giận dỗi phiền muộn
không cùng.
Đụng lớn, tiểu đoàn lấy được một lô súng đạn, thừa
thắng truy kích địch để lùa chúng về quốc lộ 4. Bên trái là sông Tiền
Giang, Tiểu đoàn 3 nhẩy dù bên phải làm thành phần chận bít. Tiểu đoàn
tôi lùa địch từ đông sang tây. Việt cộng phân tán thành từng toán nhỏ để
chạy trốn. Ba đại đội tác chiến được xử dụng để lục soát không chừa một
hốc nhỏ. Việt cộng được moi lên từ các ao bèo, bờ lúa, đụn rơm, cuộc
truy kích vừa khôi hài vừa hào hứng như trò chơi. Tôi lầm lì đi giữa
hàng quân, trận đánh ngày hôm qua, một đêm mất ngủ, cái chết hàng loạt
của Việt cộng, những thây ma tênh hênh lăn lóc, tất cả đổ ào xuống một
lượt trên tâm hồn hồn nhiên — Tôi ngất ngư như lần đầu tiên uống rượu
nhưng đây là cơn say đen. Xua quân đi vào một vườn dừa rộng, tiểu đội
bên trái, tiểu đội bên phải, lục soát dọc theo hai con rạch nhỏ bao
quanh khu vườn. Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn
lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xám...Một người đàn bà áo trắng quần đen tay
ôm chiếc lẵng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nhìn thẳng
ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như
pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không cảm giác. Thằng bé theo
tôi cùng cùng tên hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi
đến trước chị đàn bà...
- Làm gì chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao?
Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn sợ hãi.
Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẵng mây vào mặt tôi, động tác nhanh
và gọn như một người tập thể dục. Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón
lấy... Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng
dây cao su. Mở gói, hai sợi giây chuyền vàng, một đôi bông tai.
- Của chị đây hả? - Vẫn im lặng. Nỗi im lặng ngột ngạt, lạ lùng.
- Con mẹ này điên rồi thiếu uý, chắc sợ quá hóa điên.
Tên hiệu thính viên thì thầm sau lưng tôi, mắt nó sáng lên khi nhìn vào những miếng vàng chói trên giấy...
- Vàng, chắc cũng hơn một lượng, lấy đi thiếu uý... Ê! Đi đi.
Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng.
- Chị kia quay lại đây tôi trả cái này... - Tôi nói vọng theo.
Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im
lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ vỡ bùng sợ hãi, vẻ
hốt hỏang thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi... Chị ta còn
trẻ lắm, khỏang trên dưới hai bảy, hai tám tuổi, da trắng mát tự nhiên,
một ít tóc xõa xuống trán làm nét mặt thêm thanh tú. Tôi đưa trả chiếc
lẵng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị
dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay buông xuôi mệt nhọc
song song thân người. Dòng nước mắt chảy dài trên má. Tôi hươi mũi súng
trước mặt chị ta:
- Ngồi đây! Tôi chỉ nòng súng vào bực tam cấp. Khi
nào tụi tôi đi thì chị đi theo... Tại sao khóc, nhặt vàng lên đi chứ... -
Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên
bần bật, nước mắt ràn rụa... Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước
ngực... Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn
những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng
một phần ngực trắng hồng! Không phải như thế chị ơi... Người đàn bà đã
hiểu lầm tôi... Không lấy vàng và bắt đứng lại!! Chị ta không hiểu được
lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị ta
tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết
bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời
sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này. Tôi đi lính chỉ với một
ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp
mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này... Thê thảm
cho tôi, cho những người lính chung quanh vì lính chúng tôi có thể tàn
bạo khỏanh khắc, tham lam lén lút nhưng chúng tôi đâu phải là một thứ
lính tẩy trên quê hương — Người ngoại cuộc với những tàn phá kinh tởm do
chiến tranh này gây nên. Chúng tôi có lòng nào hưởng cảm giác trên xác
thân của một người đàn bà Việt Nam trong cơn vỡ nát kinh hoàng thống
khổ... Khổ lắm, người đàn bà của tỉnh Kiến Hòa đâu biết chúng tôi không
bao giờ muốn huênh hoang, hung bạo trong vườn xanh bóng mát này, chúng
tôi đâu có muốn tạo những ngọn lửa oan uổng thiêu đốt căn nhà bình yên
như giấc mơ của chị. Và những mảnh vàng đó, thân thể chị đây ai có can
đảm để giang tay cướp phá và xâm phạm! Tôi muốn đưa tay lên gài những
chiếc nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị nhưng chân tay
cứng ngắt hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp, cảnh
sống nào đã đưa chị vào cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt những ngón tay cởi
tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ
bằng em út, trong khi nước mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu tràn kinh
hãi.
Quân rút ra khỏi làng, chị đàn bà đi theo chúng
tôi, vẫn với những bước đi ngượng ngập cứng nhắc, vẫn đôi mắt nhìn vào
khỏang trống không cảm giác. Người đàn bà Việt Nam bước đi trong ngỡ
ngàng với hạnh phúc khốn nạn: Hạnh phúc đến chót sau những thống nhục
rời rã. Hạnh phúc lạ lùng như chiêm bao thấy thân thể chưa bị xúc phạm!
Quân rút ra gần đến quốc lộ, con sông bên trái đầy
thuyền, hỗn độn dòng người chen chúc. Dân của vùng hành quân trốn ra từ
ngày trước, tiếng người kêu la vang dội một khỏang sông, họ hỏi thăm
tình trạng nhà cửa, người thân thích, người kẹt trong vùng hành quân.
Tiếng khóc vang rân... Trời ơi, nhà ông Năm bị chết hết cả rồi bà con cô
bác ơi! Tiếng kêu thê thảm như một kẻ đắm đò...
- Lai! Mày đó Lai ơi! - Bà già dưới sông mồm kêu
tay ngoắc chị đàn bà theo chúng tôi. Chị ta dừng lại như để nhớ một dĩ
vãng, như nhớ một khỏang sống đã đi qua... - Lai! Lai ơi, má đây con...-
Chị đàn bà đứng lại xoay người về phía dòng sông... Má! Má!
Tôi thấy đôi môi run rẩy thì thầm: Nhà cháy rồi!
Nhà cháy rồi! Chị ta đi lần ra phía bờ sông, cũng với những bước chân
của người mất hồn, bóng áo trắng nổi hẳn trên đám dừa xanh.
Tôi cúi đầu đi thẳng, mắng mấy người lính đứng tần
ngần nhìn theo người đàn bà: Tiên sư, đi lẹ còn qua phà sớm. Lòng ngập
một niềm ăn năn kỳ lạ.
Chiếc phà đưa tiểu đoàn chúng tôi về Mỹ Tho. Dân
chúng ra đứng nhìn cảm phục. Đóng quân ở sân vận động, tôi đi lên chiếc
cầu hướng về phía Gò Công, dòng nước đen thấp thoáng ánh đèn chảy siết
dưới chân cầu đục ngầu như tâm hồn. Đêm tỉnh lẻ đỏm dáng tội nghiệp, tôi
đi lang thang, thật lạ ngay với chính mình, gặp Bang ở Biệt động quân,
anh chàng nhỏ người nhưng ồn ào nhất trong số mười lăm anh khóa 15 Thủ
Đức về Biệt động quân. Bang đãi tôi cơm, tôi chỉ uống được chai bia,
xong chúng tôi đi coi ciné, phim The Sun Also Rise, phục Hemingway thì
có khi đọc sách, nhưng phim dửng dưng, nhạt nhẽo. Tôi đi về trong đêm
khuya, thành phố ngủ sớm, chiếc lá khô bay trước mặt như tà áo của cô
gái. Tội nghiệp thay cho một tuổi trẻ, tôi cũng đáng tội nghiệp nữa.
Ngày mai chúng tôi về Sài Gòn, ao ước được cởi áo nhà binh trong vài
ngày, nhưng đó chỉ là ao ước vì chúng tôi biết rằng Sài Gòn đang có biến
động, Phật giáo và Công giáo xua tín đồ ra đường phố. Lần đầu tiên
trong đời, tôi biết thế nào là phẫn nộ khi về đến Sài Gòn đóng ở Tổng
Nha Cảnh Sát, lãnh một cái mặt nạ để sẵn sàng dẹp biểu tình.
Tháng 8-1964. Kiến Hòa
No comments:
Post a Comment