Gởi Phan Duy Nhân
Chúng tôi đến Đà Nẵng lúc thành phố đang trong cảnh
chết, nhà đóng cửa, đường vắng dây kẽm gai dăng đầy, biểu ngữ chống
chính phủ căng la liệt. Thành phố lặng lẽ nỗi phản kháng tuyệt vọng. Im
lặng đáng sợ như một trái bom đã rút chốt.
Tôi không ngờ trở về với thành phố tuổi nhỏ trong
cảnh oái oăm như thế này, con đường Khải Định chạy qua đường Ông Ích
Khiêm đến Chùa Tĩnh Hội giờ này lặng lẽ và nguy biến. Con đường này thuở
xưa qua khỏi cầu Vồng ngợp lá phượng xanh dẫn đến biển, xe đạp học trò
lăn đi như bánh xe hồng trong cổ tích. Nhưng bây giờ thì đã khác. Chia
lính đi hai bên đường, súng cầm tay, áo giáp, nón sắt, vì từ một ngôi
nhà nào đó biết đâu có thể một họng súng đang hướng về tôi! Người bắn đó
là ai? Có thể là một người mà tuổi nhỏ tôi đã biết... Từ cầu Vồng xuống
khỏi chiếc dốc rẽ về phía tay trái, đường Đông Kinh Nghĩa Thục, trước
sân vận động, nhà chị M... Tối mùa đông gió thổi, lá cây phượng rơi đầy
sân, tôi cùng Tr và M ngồi cạnh nhau ở bậc tam cấp trước thềm nhà, Tr
thổi khẩu cầm bài Étoiles des neiges, tuổi mười bảy đẹp như nốt nhạc
hoang đường, tình bạn, tình yêu, ước vọng mù mờ của tuổi mới lớn hòa
hợp, se sắt nồng nàn như cơn gió mùa đông làm căng da mặt, nẻ những
đường môi rơm rớm hơi máu nóng. Đà Nẵng, bên kia cầu Vồng qua hai ngã
tư, nghĩa trang người Pháp, trên đồi cao đầy bóng cây đại, tôi trải
chiếc blousson trên một mộ bia ngủ thiếp đi trong mùi thơm nồng nồng của
hoa Sứ. Trời mùa đông xám đặc như xuống thấp, từ độ cao u ám của nghĩa
trang, tôi sống như gạch nối giữa nỗi chết cùng sự sống. Bỏ nghĩa trang
tiến thêm một đoạn, rẽ về phía tay trái, trường tôi... Thuở ấy chỉ có
một dãy nhà ngang sáu lớp, hàng cây phượng mới trồng trơ vơ trên nền đất
cát trắng. Lúc nhập học trời vào thu, trong lá cây kiền kiền đầy bướm
ngài sặc sỡ, lũ bướm chập chờn bay yếu đuối như cảnh đời đài các phải
chạm vào cuộc sống gió bão. Nơi chốn này, lớp học thứ hai kể từ tay
trái, bàn thứ hai bên phải, tôi dùng mảnh chai khắc tên trên bàn học với
hy vọng một tương lai trở về trong vinh hiển, sẽ đi vào lớp học, ngồi
lại trên ghế băng học trò mát lạnh, thật im lặng rồi chào người thầy học
cũ để ra đi, thành kính như Đại Tướng Carnot của bài học thuộc lòng
thuở nhỏ...
Nhưng bây giờ, tôi đang trở về trên quê hương thơ
ấu và không phải là như vậy. Ngôi trường kia và tôi giờ này quá xa cách,
người ở thành phố này có thể đốn ngã tôi trong khoảnh khắc. Thực tại đã
giết hết kỷ niệm. Lệnh tập hợp đại đội lại đi về phía chùa Tĩnh Hội vì
lực lượng biểu tình từ trong chùa đang tiến ra. Ở Sài Gòn suốt thời gian
cuối năm 1964, tôi đã va mặt với đủ các loại biểu tình, đã hiểu thế nào
là nỗi chịu đựng của người lính khi đối diện với đám đông nhân danh Tổ
Quốc và Thượng Đế... Nhưng ở đây thì khác, tôi linh cảm một sức mạnh bí
ẩn làm động cơ thôi thúc một tập hợp hỗn độn đứng hẳn về một phía chống
chính quyền. Đằng sau đám đông trước mặt này là gì? Tôn giáo, Đảng phái
ái quốc cực đoan hay là Mặt Trận?
Tôi không rõ, nhưng với đám đông này tôi không thấy
phẫn nộ như ở lần trước Viện Hóa Đạo, đường Trần Quốc Toản Sài Gòn. Bây
giờ là một nỗi buồn rầu mệt nhọc đang tràn đầy...
Coi chừng tụi nó có súng, có thể chúng tấn công vào
anh... Đám biểu tình dẫn đầu bởi một người mang lá cờ. Gã phất cờ và
bắt đầu bằng những lời lẽ khích động, những lý luận thông minh được diễn
tả bằng một giọng hùng hồn đanh thép đầy nhiệt tình. Tôi chóng mặt,
người như muốn ngồi xuống với một nỗi xót xa... Dinh, đúng nó đấy, thằng
bạn của tôi, thằng bạn của những ngày còn bé đã nuôi dưỡng hoài bão
thay đổi đất nước và văn hóa. Không phải mơ mộng viễn vông nhưng là một
ước vọng ám ảnh hiện thực. Và bây giờ cũng bằng giọng nói đó, ánh mắt
rực lửa đam mê đầy nhiệt tình... Dinh đang đứng trước mặt tôi! Dinh ơi,
mày có biết cho tao không? Lịnh tấn công được ban ra, tiêu lịnh riêng
phải bắt cho được gã cầm cờ. Chúng tôi và Cảnh sát dã chiến bắt đầu tấn
công. Tôi thấy nó, thằng bạn của tôi tóc xõa dài xuống trán, tay nâng
cao lá cờ lúc chạy lui. Hình ảnh này giống một cảnh trong War and Peace
do Mel Ferrer đóng. Tôi không phải là Napoléon, nhưng đang là kẻ chiến
thắng phía bạo lực, và thằng bạn tôi đang chạy lùi về sau. Chưa bao giờ
cảm phục một người trong đời đến như vậy.
Một viên đạn nào trúng nó, tôi thấy nó ngã quÿ,
Cảnh sát dã chiến nhào tới, tôi thấy cánh tay nó đưa lên vùng vẫy, những
cánh tay cứng rắn nhưng tài hoa - Những ngón tay ngày xưa mỗi khi diễn
tả ý nghĩa hay đọc một câu thơ, thường hoa lên trước mắt tôi:
- Đem tình thương dựng nên đời,
- Không tro tàn, bếp lạnh...
- Mỗi độ xuân sang rộn tiếng trẻ thơ cười.
Câu thơ mở đầu cho đặc san Chỉ Đạo của Thủy Thủ
được nó ngâm đi, ngâm lại nhiều lần, những ngón tay dài kia theo câu thơ
chuyển động trước mắt tôi. Nhưng bây giờ chỉ cònlà những ngón tay tuyệt
vọng. Dinh ơi!! Tôi kêu tiếng đau đớn trong lòng.
Từ thuở bé tôi vốn không thích làm chuyện lớn,
nhưng tôi với nó chơi thân với nhau vì cùng thái độ thiết tha với những
điều mình yêu quý. Những ngày ở Đà Nẵng tôi và nó chưa thân tình lắm;
nhưng kể từ những năm về sau, lúc Dinh về ở tại căn phòng nhỏ cạnh cầu
Bạch Hổ - Huế, chúng tôi mới thật gần nhau. Căn gác nhỏ trong mùa mưa
lạnh buốt như thỏi đá, gió từ sông thổi lên luồn qua khe cửa trống trải
lồng lộng. Nó ngồi như kẻ điên, một thứ điên tỉnh táo, tội nghiệp, lảm
nhảm kể cho tôi nghe cảnh người ta vớt xác đứa em gái độc nhất của nó...
Đứa bé gái tóc dài, mắt đen, mười hai tuổi, thông minh và xinh xắn như
nàng tiên nhỏ. Nó kể cho tôi nghe cảnh người ta kéo xác em nó vào bờ nó
ôm thân thể nhỏ bé ấy vào tay, bế xác em đi thất thểu trong trời đông u
ám. Những câu chuyện rời rạc về người cha, một người gác cổng xe lửa bị
lao xương, đứa em trai bị tê liệt lâu lâu lên cơn một lần giật bắn
người, sùi bọt mép! Những câu chuyện đó lập đi, lập lại hoài bằng giọng
nói... Không, bằng những tiếng hú thất thanh, tuyệt vọng như loài chó bị
trấn nước. Nhưng trong những ngày tháng thê thảm đó, tôi vẫn chưa hề
nghe nó một lần than vãn. Không phải là một thái độ thách đố kịch cỡm,
nhưng với một can đảm dũng mãnh, Dinh vẫn chú tâm dịch cho hết cuốn
Condition Humain, vẫn nuôi dưỡng những hoài bão tửơng như chỉ là huyền
thoại, nhất là nói về thơ một cách si mê, cùng với tình yêu của một
người con gái tên Hà. Sau này có gặp những cảnh đời khắt khe, tôi vẫn
cắn răng chịu đựng vì nghĩ đến Dinh, một người bạn dị biệt, tài hoa và
can đảm đáng kính phục.
Từ thời gian ấy trở về sau này, tôi không được tin
tức gì về Dinh cho đến ngày hôm nay. Không biết vì một chủ quan nào, tôi
vẫn nghĩ rằng Dinh không thể là một người Cộng sản thuần thành được.
Đấy chỉ là một nghệ sĩ mang nhiệt tình vào đời sống và ấp ủ hoài bão dậy
quê hương lớn lên. Tôi tin chắc như vậy. Dinh ơi, lâu quá tao không gặp
mày, nhưng tao vẫn nhớ lá thư tình dài hơn hai mươi trang giấy học trò
của mày. Nhớ để nghĩ rằng đấy tuy là tình yêu lãng mạng của tuổi mới
lớn, nhưng đồng thời xác định nỗi thiết tha của mày, lòng của một người
luôn luôn muốn sống chân thật. Mấy năm sau này dù mày có vào khu ra báo
cho Mặt Trận nhưng tao vẫn nghĩ rằng đấy chỉ là một thế sống trong giòng
đời sôi nổi và đam mê của mày. Không có một chủ nghĩa Cộng sản nào
trong mày hết, chỉ có một lòng tin: Đem tình thương dựng nên đời... Phải
thế không Dinh? Tao là kẻ bông lông, lếu láo ngay cả trong tư tửơng,
đối với tao chẳng có gì đáng để gọi là lý thuyết và chủ nghĩa. Nên hình
ảnh của mày để tao nhớ chỉ là những buổi chiều mùa đông, mưa giăng kín
mặt sông, mày làm thơ tặng Hà viết vào cuốn nhật ký của tao...- Từ đó xa
em đời ở trọ...
Mày chỉ nên làm gã thi sĩ của tình yêu, của lòng
NHÂN. Ai có thể biết được một tương lai sau này, tao trở thành một tên
lính chứng kiến lúc mày ngã xuống cho một quê hương tốt đẹp chỉ có nơi
hư vô.
Tháng 7-1966. Đà Nẵng.
Chương 14: Về Một Thành Phố Hư Hại
Trên
chiếc xe chở toàn thể sĩ quan về hội quán Phượng Hoàng, tôi chợt nhớ
đến một điều, hôm nay là ngày sinh nhật, tôi đúng hai mươi ba tuổi.
- Hôm nay là sinh nhật của tôi, được hai mươi ba tuổi rồi đó...
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng hỏi đùa:
- Hai mươi ba tuổi, già quá hả?
Mọi người lao nhao theo để trêu chọc... Hai mươi ba tuổi, quan hai còn nhỏ lắm, không ăn thua gì đâu...
- Nhưng vẫn năm năm lính rồi chứ ít gì.- Tôi phản đối.
Đức nói nhỏ vào tai:
- Mới bằng thời gian người ta đi chơi bời thôi con trai!
Tôi cụt hứng ngồi im.
- Thế nào người anh hùng nhỏ tuổi, nhớ vợ phải không? - Châu "ghẻ" kể thêm một câu.
- Đ.m... Con giai tôi không dám không biết cái "ấy" của vợ ở đâu nữa, tôi cứ tưởng nó nhớn lắm, ai ngờ chỉ mới hai mươi ba tuổi.
Anh Ba "râu" tay ăn nói bạt mạng nhất ở Nhảy dù,
phán thêm một câu làm tôi chết cứng. Tôi còn trẻ lắm, hai mươi ba tuổi
chưa biết mẹ gì! Ai biết được thế nào là mười năm đã qua của tôi... Năm
ngày hành quân vừa rồi, hai mươi lăm cây số đường rừng không thấy mặt
trời, ngày di chuyển từ bảy giờ sáng đêm đóng quân thức giấc liên miên
vì sợ Việt cộng đột kích. Người tôi đã ở tận cùng gian khổ. Hôm qua, tám
giờ tối rút ra gần quận Lệ Thanh, đêm miền núi lạnh như cắt da nhưng
cũng phải nhào xuống dòng suối lạnh buốt để kỳ cọ, năm trái bắp sống ăn
không kịp nuốt vì đói! Cảnh khổ của ba năm liên tiếp không đủ cho tôi
già sao? Cực khổ, tai ương, nhọc nhằn, cùng với những rối rắm, phiền hà
của thời gian qua chưa đủ làm tôi trở nên người lớn? Và bao nhiêu thống
khổ từ niên thiếu?! Tôi lầm lì cho đến hết bữa ăn. Ăn xong, mọi người
kéo nhau vào phòng nhảy.
- Nhảy đi mày, có mấy em được lắm... - Trang đề nghị.
- Nhảy mẹ gì. Mày cứ kêu bia cho tao.
Phòng nhảy mờ mờ ảo ảo đến bực bội, ăn chơi tỉnh lẻ
lỉnh kỉnh, quê mùa không chịu được. Lại thêm có anh thợ hát ở đâu lò dò
lên ca một bài để tặng các anh chiến sĩ...
- Đ.m, tặng với chả tặng!
Ngày hôm kia trong rừng sâu, đại đội tôi đi đầu
chưa kiếm ra được bãi tải thương, hai thương binh mang theo nặng như hai
bao gạo, rừng dầy quá không cáng được phải dẫn tụi nó đi từng thước...
Trên đầu, máy bay trực thăng lượn vòng đợi, dưới đất tiểu đoàn trưởng
thúc giục, tôi như cơn lửa cháy trong đầu, thế mà anh này ở đâu trên
L.19, bấm combiné của máy truyền tin Không - Lục để hát một bài tặng các
anh "Thiên thần mũ đỏ"!
- Hát với chẳng hát, tiên sư anh, tôi lại tặng cho mấy quả bây giờ. - Tôi lẩm bẩm chửi thề đứng dậy...
- Can! Can! - Anh Ba "râu" cuống quýt...- Thôi,
thôi, cho tôi xin bố, bố không muốn ngồi đây thì cút đi chỗ khác! Đi đi
cho được việc... Trang dẫn nó đi hộ tao, để nó đánh lộn ở đây thì anh
Tướng nhốt cả lũ bây giờ. Cút!!
Trang dẫn tôi ra cửa, có con hổ nhồi bông ở ngưỡng
cửa ra vào, tôi sẵn chân đá luôn một cái. Mẹ kiếp! Cứ voi với hổ suốt cả
đời...
- Bây giờ mày muốn đi đâu? - Trang hỏi.
- Tao đi lang thang.
- Đi lang thang làm quái gì, lên cái chỗ "dưỡng quân" cho biết.
- Ừ, đi thì đi.
Trung tâm dưỡng quân nồng nặc khói thuốc, ta với
tây hỗn độn, chen chúc, bia, được uống không phải từng chai nhưng từng
két, uống để đè xuống cái mùi gái, mùi lính, mùi nước hoa đĩ thõa, mùi
của thân thể không được tắm rửa, mùi của "chất" đàn ông và đàn bà sau
ngàn lần ân ái, bao nhiêu lâu đọng trên giường, trên gối, trong kẽ
ngách, dưới sàn nhà. Sàn nhà, một địa ngục thô bỉ được dọi sáng bằng
ngọn đèn lù mù yếu ớt, dầy đặc đất đỏ của muôn ngàn đôi giày lính dẫm
lên, hàng trăm cái "áo mưa" nằm lềnh kềnh, tung tóe... Đế giày nhà binh
dẫm lên nhừa nhựa, như bước trên thây thân người chết!!! Chưa có chỗ nào
ghê tởm và nhầy nhụa hơn. Con gái điếm đứng trước mặt, ánh sáng không
soi rõ, chỉ thấy một phần bụng nhăn nheo, vết thâm tím thẫm.
- Anh cởi quần áo ra đi chứ? - Im lặng. Nó vẫn tiếp
tục cởi phần y phục còn lại. Đến ngồi bên mép giường, xong đưa tay
ngoắc tôi...
- Em cởi quần áo cho anh nghe? - Nó đưa tay lên nút áo của tôi.
- Không cần, để thế này, "chơi đứng"!!!
- Đâu có được?
- Sao không?
- Em không quen, khó "chơi" lắm, với lại em thấp thua anh.
- Ăn thua mẹ gì! Mày đứng trên giường.
Con bé lắc đầu không chịu. Tôi đấm một cái thật
mạnh, nó văng ngữa người trên giường la inh ỏi. Ngoài sân có tiếng chân
chạy, phòng bên cạnh có con điếm khác chửi thằng Mỹ tơi bời.... ****
you!! Tôi phóng nhanh ra cửa, ngoắc Trang leo lên xe, chạy nhanh như
chớp về phía Pleiku...
- Mày say rồi hả?
- Ừ.- Tôi nhường lái cho nó. Người mệt lả như sau cuộc đua quá sức...
- Bây giờ làm gì? Trang hỏi.
- Cứ đi vào cái bar nào đó chẳng được.
Pleiku, thành phố của snack-bar, người tử tế không
có ai ra đường sau tám giờ tối, tôi nghĩ vậy. Thành phố của đĩ điếm công
khai, của đổi chác dâm dật lộ liễu, thành phố hết tình người, giữ gìn
làm gì? Phải, giữ gìn làm gì? Phá cho thả cửa...
Còn gì nữa đâu... Thành phố này chỉ trước hai năm
thôi, tháng tám năm một ngàn chín trăm sáu tư, tôi đến đây chạy như
giông bão để tìm em. Tôi đến đây vào buổi tối trời mù sương, thành phố
kín cửa, tôi chạy như kẻ điên, như người mất trí, tôi đập cửa từng nhà,
hỏi gặn từng người qua mặt... Em ở đâu? Em ở đâu?... Đây là nhà em, con
đường Hoàng Diệu nối dài hoang vắng, lầy lội không ánh sáng, không bóng
người... Tôi chạy vào nhà em tưởng chừng như có giọng nói, nụ cười, và
em sẽ có, có thật đầy đủ, có như những lần đã có trong tay tôi... Nhưng
tất cả không còn gì? Chiếc dốc hoang vắng đưa tôi về chỗ trọ, buồn thảm
như đường về cõi chết... Hơn hai năm đi qua, hôm nay trở lại thành phố,
còn gì đâu những ngày xưa nữa... Đĩ điếm, xanh đỏ, lòe loẹt xuất hiện
trong đường phố, tiếng cười, giọng nói đâu còn vóc dáng Việt Nam và
em... Và em cũng đang tan biến đâu rồi trong tận cùng đổ vỡ quê hương...
Tối hôm đó, tôi không biết đã đi vào bao quán rượu.
Không biết phải chứng kiến bao khuôn mặt nham nhở, ngu ngơ, bao nhiêu
chiếc mồm thoa son đỏ loét mở ra, khép vào như những vết thương ghẻ lở.
Tôi chỉ biết say, say thật nhiều. Say đi, quê hương, ta còn không giữ kể
gì thân ta... Say đến nỗi không nhấc nổi bước chân. Và vào lúc mười hai
giờ đêm, thành phố đẫm sương mù bao phủ, le lói ánh đèn đường nhạt nhạt
mênh mông, tôi ngồi ngay hè đường run rẩy ăn tô phở, ánh hồng từ bếp
lửa chiếu lên chập chờn soi rõ mặt...
- Mấy ông đi chơi gì mà khuya vậy? - Người bán phở
hỏi vu vơ. Giọng nói người Huế khàn khàn. Lại một kẻ tha phương đi kiếm
sống như tôi đi đánh giặc! Trang hát nhỏ thì thầm... Một đắng cay, xót
xa nào đọng trên mi mắt... Ngày này tôi được hai mươi ba tuổi.
Tháng 9 năm 1966, Pleiku.
No comments:
Post a Comment