Saturday, July 17, 2021

Dấu Binh Lửa - Phan Nhật Nam - Chương 11: Một Nghề Nghiệp Nguy Hiểm - Chương 12: Người Giữ Cửa Thủ Đô

Bây giờ tôi đang ở Trung Tâm Huấn Luyện tân binh, công việc không có gì khó khăn, nhưng hai tháng qua đã làm cho tôi mệt thật sự — Sự mệt nhọc không phải ở công việc, nhưng ảnh hưởng của những việc làm nhỏ nhặt nơi trung tâm này gây nên một sự khốn khổ kỳ lạ. Tôi thấy rõ nghề nghiệp này quả là đáng sợ, kéo con người xuống hố sâu tuyệt vọng không cùng.

Tôi dạy lính về kỹ luật, làm đại đội trưởng khóa sinh, dẫn tân binh đi học, đi ăn, cho đi phép, dạy tập chào, tập đi, tập đứng. Nếu tôi chỉ làm ngần ấy thứ với một sự bình thường thì chẳng nói làm gì, đằng này tôi chỉ huy với một nhiệt tâm được hướng dẫn bởi tàn ác kinh khiếp ngụy trang một cách khéo léo. Có thể nói chắc chắn rằng tôi không phải loại người có ác tính và cũng không bao giờ trở nên tàn ác được dù dưới một ảnh hưởng nào. Suốt hai năm chỉ huy vừa qua tôi chỉ đánh lính một lần, người bị đánh chính là thằng bé đi theo tôi bị đánh vì tội đánh bạc. Tôi đánh nó mấy roi kiểu anh đánh em. Nhưng những ngày ở trung tâm này thì khác, tôi tàn bạo một cách hiểm độc, tôi nghĩ ra những hình phạt quái lạ, mới mẻ, ảnh hưởng đến trí não cùng thân thể người bị phạt đến vô cùng. Tân binh vắng mặt bất hợp pháp hai ngày, tôi phạt hai giờ "bó chả" — Tên lính thọ phạt được nhét vào trong một lồng sắt, tay và chân đút vào trong bốn lỗ thủng của chiếc gông, xong trùm lên cái poncho. Người lính bị đóng khung trong bốn chiếc lỗ, không nhúc nhích vào đâu được, và độc hại nhất là hơi nóng dưới lớp áo mưa. Tinh quái hơn nữa, tôi đặt trước mặt kẻ bị phạt cái đồng hồ, người bị phạt có cảm giác như bị đè nặng dưới một cực hình không giới hạn.
Tôi biến chế ra những hình phạt để áp dụng cho từng loại người một, tôi khôn ngoan thâm hiểm một cách bệnh hoạn y như những tên có nhiệm vụ tra tấn tù nhân trong các trại tập trung. Kinh khủng hơn hết là tâm trạng bình thản lạnh lùng, vẻ sáng suốt tàn ác mà tôi có được khi ra lệnh phạt. Tôi lý luận một cách thông minh — Phạt thật nặng một số ít để làm gương cho số đông, tập cho tân binh chịu đựng những cứng rắn và tàn bạo của đời lính, đau đớn ở quân trường chỉ là những bước đầu để tôi luyện tâm hồn người lính mới, chiến trường của tương lai gần sau đó sẽ bi thảm và tàn khốc gấp bội! Tôi tin tưởng vào định đề này. Chỉ huy trưởng trung tâm cũng nghĩ như thế và nhất là tân binh, kẻ thọ nạn trong cuộc phiêu lưu của lý luận tàn bạo trên lại chấp nhận tích cực hơn ai hết. Tôi không phạt oan một người nào, không cau có nổi giận, hình phạt không xảy đến như kết quả của cơn giận dữ, nhưng là một khôn ngoan sâu độc, để bắt kẻ có lỗi phải nhận hình phạt kèm mặc cảm phạm tội nặng nề.
Nhưng không phải là như vậy, dù có lý luận khôn ngoan, né tránh đến tuyệt kỹ, đằng cuối đường của sự tàn bạo kể trên, tôi thấy được khuôn mặt của thù hận. Đúng, tôi thù hận! Sau trận Đồng Xoài khi nhìn xác chết của những người bạn, những kẻ đã từng cười, từng nói, đã sống với tôi trong hai năm, những người đó đột nhiên chết đi, không phải chết lành lặn, nhưng chết tàn bạo và bi thảm. Họ chết ghê tởm như những xác chết qua ngày thứ bảy, thân thể đầy dòi bọ lúc nhúc; mùi thối đọng lại trên từng mỗi chân lông, trên mọi dây thần kinh của khứu giác nằm lì lợm trong trí nhớvà hơi thở. Suốt mười ngày liên tiếp của tháng Sáu, tôi chỉ ăn được bánh ngọt, và từ những ngày ấy cho đến giờ tôi uống rượu như một tên bợm chính cống. Thù hận mọc khu rừng xum xuê theo cơn tàn phá của cơn say hàng ngày. Người ở thành phố, những người lính không đi hành quân, và gần gũi nhất là đám tân binh ngu ngơ hỗn độn dưới quyền, tất cả đều có khả năng khêu gợi thù hận bệnh hoạn khi tôi nghĩ đến cảnh chết khốn nạn của bạn bè — Nỗi thù hận nhìn thấy những người có hạnh phúc vì được sống! Ly rượu không phải là nguyên nhân nhưng là một tính chất, một cách diễn tả sự cuồng nộ. Tôi không say nhưng men rượu giúp những cảm xúc biến thành cực đoan hung bạo lạ lùng. Tôi đã đứng ở đường Trần Quốc Toản để đợi giết một người. Suốt hai ngày dưới mưa và nắng Sài Gòn, người bị nung chín bởi y định giết người — Cơn giải thoát phải có cho một giấc mơ hãi hùng. Lòng tôi không thoáng xúc động khi nghĩ đến cảnh chiếc đầu của người ấy vỡ nát dưới viên đạn của tôi. Kết quả không thực hiện được ý định vì một sự xô xát xảy ra tại địa điểm đứng rình. Thế giới bên ngoài với những trận đánh lộn hàng ngày không đủ sức giải tỏa niềm hung hăng ẩn dấu trong lòng, tôi trở về trung tâm với đám tân binh, được yểm trợ lý luận khôn khéo của bổn phận — Tôi tàn bạo như cơn mộng du đỏ lửa.
Nỗi ngụy tín cùng với sự tàn bạo lạ lùng trên không thể kéo dài. Những buổi chiều mưa ở trên căn gác tồi tàn đường Kỳ Đồng, khi lũ bạn đã đi vắng, tỉnh giấc sau cơn ngủ trưa nồng hơi rượu, chợt rùng mình vì gió lùa qua hàng cửa trống trải. Những lúc cô đơn đó, cơn tỉnh ngủ mở ra sự hiền hậu cố hữu của tâm hồn. Tôi sợ hãi như một người có bộ óc vàng chỉ còn sót lại một chút dính tay. Những lúc sực tỉnh này, tôi quyết định xin ra tiểu đoàn tác chiến để tìm thấy lại những biểu lộ tình thương ấm áp như trong những chiều nơi sườn đồi, người lính tơi tả gầy gò đang cố gắng nấu cho tôi một bữa cơm dưới chiếc lều đơn sơ. Những lúc sực tỉnh này tôi mới thấy tình yêu là một vật cao quý và mầu nhiệm — Kết quả như một quá trình nẫy nỡ của tình thương và hy vọng. Tình yêu, một phẩm vật đã lâu tôi không có.
Những ngày ở trong trung tâm này, tôi còn hiểu thêm được một điều: Khi chỉ huy một đám đông phải quên con người ở trong đó. Lính xin đi phép vì con đau nặng; tân binh trên nguyên tắc không được đi phép, tổng số trăm người, tôi là sĩ quan kỹ luật chỉ trông nom họ trong vòng hai tháng làm sao kiểm soát được tình trạng của mỗi người, thế nên phải từ chối. Nhưng nếu nhỡ con người lính đau nặng thật và chết không thấy mặt bố... Lỗi ở ai? Tôi không chịu đựng được sự tham gia vào tội ác vô tình tàn ác đó. Cái nghề này đưa tôi đến chỗ khổ sở như tình cảnh của một nhà độc tài, phải nghiêng hẳn về phía của đa số. Cứng rắn, độc đoán, hình như đấy là những đức tính cần thiết của một người chỉ huy tốt. Tôi từng nhìn một vài ông lính già; đầu hớt cao cử chỉ gò bó, ăn nói cộc lốc, năm tháng nhà binh đã ngấm vào người tạo thành một lối sống không chuyển dịch. Hạ sĩ nhất hay trung sĩ từ mười năm lính trở lên đều có một linh hồn phẳng lì như phiến gạch, sau đôi mắt u tối của họ, đố ai biết nỗi vui buồn giận dữ trong lòng. Kêu lên trình diện để rầy la vì tội không kiểm soát lính. Người đứng im không nhúc nhích; nghe hay không nghe? Phản đối hay đồng ý với lời buộc tội? Chào, quay đằng sau, đi về. Tôi chưa đến nỗi vậy, nhưng tâm hồn bây giờ giống như một mảnh đất nóng đỏ đang nguội tàn dần. Đằng sau những ồn ào tôi thấy được nỗi buồn rì rầm có thật.

Tháng 11-1965. Sài gòn

 

Chương 12: Người Giữ Cửa Thủ Đô
Chúng tôi không hiểu người dân Sài Gòn quan niệm thế nào về hoạt động phá hoại của Việt cộng? Những vụ giật mìn, ám sát, khủng bố, súng nổ đầu xa lộ, phía bót quận 8... Có đủ cho người vùng Sài Gòn, Gia Định những ý niệm về chiến tranh, thứ chiến tranh phá hoại, không quy ước. Hay vụ nổ làm sập ngôi nhà đường Nguyễn Cư Trinh, người chết do mìn gài trước Tòa Đại sứ Mỹ cũng chỉ gây nên thắc mắc nhỏ... Việt cộng đã làm như thế nào để xem được những khối nổ kia? Tai ương chiến tranh đặt ngang điệp vụ của loại phim trinh thám. Người Sài Gòn có bao giờ biết, mỗi hoạt động phá hoại là kết qủa của một công trình nội, ngoại tiếp tay phối hợp với nhau thật tỉ mỉ và chính xác. Người dân ở Thủ đô có bao giờ biết mỗi lần biểu tình xuống đường lựu đạn chất nổ được đưa vào Thủ đô nhiều hơn, Việt cộng xích gần về phía Nhà Bè - xa lộ - phi trường Tân Sơn Nhất thêm một chút nữa... Một vụ tự thiêu, họp báo là du kích đặc công tiện dịp có mặt tại Sài Gòn với chất nổ đã gắn ngòi. Chung quanh Thủ đô có trung đoàn 165 A gồm những đơn vị đặc công, chuyên cận chiến trong thành phố. Tiểu đoàn 6 trung đoàn này xuất phát từ mật khu Lý Văn Mạnh hoạt động từ Bà Hom, Bà Quẹo (phần lớn của tiểu đoàn này bị tiểu đoàn 2 Dù đánh tan đầu năm 1967 tại ấp Vĩnh Hạnh). Tiểu đoàn này đưa một đại đội vào sát vùng hoạt động của chúng tôi để điều nghiên, thám sát, phối hợp với ba trung đội du kích ở các xã Bình trị Đông, Phú Lâm, Phú Thọ Hòa. Du kích ở đâu? Chính là dân chúng ở đây sau khi trốn ra bưng học tập trở về sống như người thường. Họ cung cấp tin tức và khả năng của các đơn vị giữ Thủ đô; dẫn đường lực lượng chính qui tấn công vào Sài Gòn; cầm chân quân đội Cộng hòa khi các đơn vị này rút đi. Những vụ pháo kích vào phi trường Tân Sơn Nhất là kết quả cụ thể của phối hợp du kích địa phương và chính qui. Để đối phó lại, những hoạt động trên, ta có những đơn vị chủ lực và địa phương quân, những đơn vị tổng trừ bị trấn giữ, lục soát tảo thanh chung quanh ven đô. Nhưng hoạt động chính để bảo vệ Thủ đô thật sự nằm trên vai những người lính không đồng phục, không qui chế, không quân số... Những người lính từ lũy tre, sinh và sống trên đồng ruộng. Người lính Nghĩa Quân, kẻ nhận diện được mỗi du kích, biết tên Thảo chỉ huy du kích vùng Vĩnh Lộc con ai? Lấy ai? Trốn ở đâu? Người đối đầu với Việt cộng chính là những người lính, ngày gối đầu trên đôi dép ngủ dưới hàng cây bên đường làng, đêm họ tập họp lại thành tiểu đội, trung đội nếu cần, và đấy là nông thôn vùng lên, dành lấy quyền sống, làm người tự do không cần tuyên ngôn, không hội thảo, xuống đường. Anh Ba đi Nghĩa Quân từ năm 1962, một khẩu súng, vài trái lựu đạn, thế là anh mang lên mình bản án tử hình của Việt cộng -Làm tay sai cho Mỹ giết hại đồng bào - Với số lương 1.200 đồng mỗi tháng!
Tôi biết anh từ năm 1964, lúc Sài Gòn hỗn loạn hơn bao giờ hết giữa hai phe tôn giáo. Việt cộng ngưng hẳn hoạt động lớn, dồn lực định đánh về Thủ đô, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích thường xuyên. Áp lực địch đè nặng trên vùng này, anh theo đơn vị chúng tôi để chỉ dẫn từng địa thế, nhận diện những người tình nghi.
- Đằng sau cái nhà vuông có con đường, tụi nó hay gài mìn, thiếu uý coi chừng!
- Trong bản đồ tôi không thấy gì cả!
- Đường xe bò đi, bản đồ đâu có ghi. Nhà bà già sát bên quán nước trong ấp Vĩnh Hạnh có đứa con thoát ly!
- Nó đi lâu chưa?
- Đâu khoảng tháng tư năm ngoái, nó tên Long, có con chị thoát ly về rồi, về hôm tháng sáu.
Đại khái như thế anh cho tôi biết từng chi tiết quí giá mà không một cơ quan tình báo nào có thể cung cấp. Năm 64, 65, 66... đơn vị tôi thay đổi từng vùng chiến thuật, bị thương, bị chết, mất tích. Những người lính dưới quyền tôi thay đổi hết, nhiều lính mới về, những khuôn mặt quá trẻ so với già cỗi tàn ác chiến tranh. Đơn vị tôi gặp đại nạn, tôi sau lần dưỡng thương, làm việc nhẹ, nay tiếp tục đo chân trên chiều dài quê hương. Bây giờ tôi ởđơn vị mới, trở lại vùng này gặp anh Ba. Anh nhận ra tôi trước.
- Thiếu uý... A, Trung uý có nhớ tôi không? Tôi tưởng trung uý chết ở trận Đồng Xoài rồi chứ.
- Không chết, chỉ bị thương thôi.
- Mấy người lúc trước đi theo Trung uý đâu? Cái anh "tây lai" người nho nhỏ đấy.
"Anh tây lai nhỏ", tôi kêu một tiếng trong lòng, Thái, thằng nhỏ theo tôi trong suốt thời gian dài, ích kỷ, nông nổi và trẻ con, thằng bé thường thủ thỉ với tôi những câu chuyện vu vơ sau những tối đã đóng quân xong... Bỏ quê hương miền Bắc vào Nam đi lính, thích đội nón đỏ mặc đồ saut... Chết không được xác định.
- Mấy người theo tôi chết hết cả rồi, bây giờ tôi đang ở tiểu đoàn mới. Còn anh... Có gì khác không?
- Cám ơn Trung uý, bây giờ tôi được lên trung đội trưởng.
Anh Ba bao giờ cũng vậy, sự gian khổ đến một lúc nào đấy không thể ảnh hưởng được trên anh; mặt anh không thể đen hơn, người không thể gầy hơn.
- Anh Heo bây giờ thế nào? - Heo, người nghĩa quân từng hạ hàng chục Việt cộng bằng súng cá nhân, gã lì lợm có thể uống đến mười xị đế.
- Heo nó bị thương một lần, Trung uý không biết đâu, khoảng tháng tám năm ngoái, cũng chiều chiều như thế này, tụi thằng Heo vừa đến ấp Vĩnh Tín thì bị đụng tụi nó. Ông quận đem quân lên bị đánh dội ra... Tụi thằng Heo có bảy thằng chết ba, bốn thằng bị thương cầm cự cho đến bốn giờ sáng!
- Anh có bị một lần nào như thế không?
- Có lai rai một lần ở Vĩnh Phước... - Anh bình thản nhắc lại đoạn thời gian và trận đánh. Vẫn là muôn ngàn trận đánh điển hình giữa nông dân và du kích, giữ từng tấc đất, từng bờ ruộng, không phi pháo yểm trợ. Chỉ có lòng yêu thôn xóm, một ý thức về bổn phận kèm thêm can đảm của con người muốn tồn tại. Đã bao lâu Việt cộng tối tăm hóa, ngu ngốc, hèn hạ, khêu gợi những bản năng căm thù, mặc cảm giai cấp và giòng giống để kéo dài chiến tranh, những người Việt Nam ở bên này không bị nung đỏ bởi hận thù, họ vẫn tiếp tục chiến đấu để làm sáng mắt người huynh đệ mù tối. Tôi chưa thấy trong lời nói của anh có dấu vết thù hận. Chỉ kiên nhẫn và chịu đựng.
Tôi bắt tay anh, hẹn ngày mai gặp lại, anh ngồi xuống vệ đường nhìn ra vùng đồng ruộng. Có mơ ước gì không, người trung đội trưởng nghĩa quân, một tháng một ngàn bốn trăm đồng bạc, một bao gạo hai thùng dầu ăn?!! Anh có cái gì để đãi ngộ xứng đáng? Trên đầu chiếc phản lực bay vút đi như cánh chim. Anh có so sánh và tị hiềm nào không?
Tôi biết rằng anh không biết thế nào là chủ nghĩa Cộng sản, nhưng anh tin chắc một điều, ngày nào vẫn còn loại người về ấp phát loa: "Đồng chí Chủ tịch Mao Trạch Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh... đã nói: Chúng ta phải quét Mỹ xâm lược ra khỏi thôn ấp"... Anh vẫn còn phải chiến đấu vì anh biết thằng Thảo, đội trưởng du kích đang ở vùng Xuân Thới Thượng đã cắt cổ ba ông Trưởng Ấp - Anh chiến đấu vì điều này làm anh phẫn nộ.
Thủ đô nhảy múa, hò hét, chuyển động ồn ào sau lưng anh, họ nhân danh người Lính, nhân danh Tổ Quốc. Mặc kệ, anh sống xây lưng về nó - Sài gòn - Thủ đô bạo động và dối trá. Thành phố đè lên vai anh.
Tháng 4-1966. Bà Điểm.

 

No comments:

Post a Comment

TỔNG LƯỢC VỀ TRẬN ĐÁNH TÁI CHIẾM CỔ THÀNH QUẢNG TRỊ Chu Tất Tiến.

Tháng 12, năm 2020, một nhóm người trẻ thuộc thế hệ thứ 2 đã xin được sự đồng thuận 5/5 của thành phố Westminster cho phép xây dựng Tượng Đà...