Bây
giờ tôi đang ở Trung Tâm Huấn Luyện tân binh, công việc không có gì khó
khăn, nhưng hai tháng qua đã làm cho tôi mệt thật sự — Sự mệt nhọc
không phải ở công việc, nhưng ảnh hưởng của những việc làm nhỏ nhặt nơi
trung tâm này gây nên một sự khốn khổ kỳ lạ. Tôi thấy rõ nghề nghiệp này
quả là đáng sợ, kéo con người xuống hố sâu tuyệt vọng không cùng.
Tôi dạy lính về kỹ luật, làm đại đội trưởng khóa
sinh, dẫn tân binh đi học, đi ăn, cho đi phép, dạy tập chào, tập đi, tập
đứng. Nếu tôi chỉ làm ngần ấy thứ với một sự bình thường thì chẳng nói
làm gì, đằng này tôi chỉ huy với một nhiệt tâm được hướng dẫn bởi tàn ác
kinh khiếp ngụy trang một cách khéo léo. Có thể nói chắc chắn rằng tôi
không phải loại người có ác tính và cũng không bao giờ trở nên tàn ác
được dù dưới một ảnh hưởng nào. Suốt hai năm chỉ huy vừa qua tôi chỉ
đánh lính một lần, người bị đánh chính là thằng bé đi theo tôi bị đánh
vì tội đánh bạc. Tôi đánh nó mấy roi kiểu anh đánh em. Nhưng những ngày ở
trung tâm này thì khác, tôi tàn bạo một cách hiểm độc, tôi nghĩ ra
những hình phạt quái lạ, mới mẻ, ảnh hưởng đến trí não cùng thân thể
người bị phạt đến vô cùng. Tân binh vắng mặt bất hợp pháp hai ngày, tôi
phạt hai giờ "bó chả" — Tên lính thọ phạt được nhét vào trong một lồng
sắt, tay và chân đút vào trong bốn lỗ thủng của chiếc gông, xong trùm
lên cái poncho. Người lính bị đóng khung trong bốn chiếc lỗ, không nhúc
nhích vào đâu được, và độc hại nhất là hơi nóng dưới lớp áo mưa. Tinh
quái hơn nữa, tôi đặt trước mặt kẻ bị phạt cái đồng hồ, người bị phạt có
cảm giác như bị đè nặng dưới một cực hình không giới hạn.
Tôi biến chế ra những hình phạt để áp dụng cho từng
loại người một, tôi khôn ngoan thâm hiểm một cách bệnh hoạn y như những
tên có nhiệm vụ tra tấn tù nhân trong các trại tập trung. Kinh khủng
hơn hết là tâm trạng bình thản lạnh lùng, vẻ sáng suốt tàn ác mà tôi có
được khi ra lệnh phạt. Tôi lý luận một cách thông minh — Phạt thật nặng
một số ít để làm gương cho số đông, tập cho tân binh chịu đựng những
cứng rắn và tàn bạo của đời lính, đau đớn ở quân trường chỉ là những
bước đầu để tôi luyện tâm hồn người lính mới, chiến trường của tương lai
gần sau đó sẽ bi thảm và tàn khốc gấp bội! Tôi tin tưởng vào định đề
này. Chỉ huy trưởng trung tâm cũng nghĩ như thế và nhất là tân binh, kẻ
thọ nạn trong cuộc phiêu lưu của lý luận tàn bạo trên lại chấp nhận tích
cực hơn ai hết. Tôi không phạt oan một người nào, không cau có nổi
giận, hình phạt không xảy đến như kết quả của cơn giận dữ, nhưng là một
khôn ngoan sâu độc, để bắt kẻ có lỗi phải nhận hình phạt kèm mặc cảm
phạm tội nặng nề.
Nhưng không phải là như vậy, dù có lý luận khôn
ngoan, né tránh đến tuyệt kỹ, đằng cuối đường của sự tàn bạo kể trên,
tôi thấy được khuôn mặt của thù hận. Đúng, tôi thù hận! Sau trận Đồng
Xoài khi nhìn xác chết của những người bạn, những kẻ đã từng cười, từng
nói, đã sống với tôi trong hai năm, những người đó đột nhiên chết đi,
không phải chết lành lặn, nhưng chết tàn bạo và bi thảm. Họ chết ghê tởm
như những xác chết qua ngày thứ bảy, thân thể đầy dòi bọ lúc nhúc; mùi
thối đọng lại trên từng mỗi chân lông, trên mọi dây thần kinh của khứu
giác nằm lì lợm trong trí nhớvà hơi thở. Suốt mười ngày liên tiếp của
tháng Sáu, tôi chỉ ăn được bánh ngọt, và từ những ngày ấy cho đến giờ
tôi uống rượu như một tên bợm chính cống. Thù hận mọc khu rừng xum xuê
theo cơn tàn phá của cơn say hàng ngày. Người ở thành phố, những người
lính không đi hành quân, và gần gũi nhất là đám tân binh ngu ngơ hỗn độn
dưới quyền, tất cả đều có khả năng khêu gợi thù hận bệnh hoạn khi tôi
nghĩ đến cảnh chết khốn nạn của bạn bè — Nỗi thù hận nhìn thấy những
người có hạnh phúc vì được sống! Ly rượu không phải là nguyên nhân nhưng
là một tính chất, một cách diễn tả sự cuồng nộ. Tôi không say nhưng men
rượu giúp những cảm xúc biến thành cực đoan hung bạo lạ lùng. Tôi đã
đứng ở đường Trần Quốc Toản để đợi giết một người. Suốt hai ngày dưới
mưa và nắng Sài Gòn, người bị nung chín bởi y định giết người — Cơn giải
thoát phải có cho một giấc mơ hãi hùng. Lòng tôi không thoáng xúc động
khi nghĩ đến cảnh chiếc đầu của người ấy vỡ nát dưới viên đạn của tôi.
Kết quả không thực hiện được ý định vì một sự xô xát xảy ra tại địa điểm
đứng rình. Thế giới bên ngoài với những trận đánh lộn hàng ngày không
đủ sức giải tỏa niềm hung hăng ẩn dấu trong lòng, tôi trở về trung tâm
với đám tân binh, được yểm trợ lý luận khôn khéo của bổn phận — Tôi tàn
bạo như cơn mộng du đỏ lửa.
Nỗi ngụy tín cùng với sự tàn bạo lạ lùng trên không
thể kéo dài. Những buổi chiều mưa ở trên căn gác tồi tàn đường Kỳ Đồng,
khi lũ bạn đã đi vắng, tỉnh giấc sau cơn ngủ trưa nồng hơi rượu, chợt
rùng mình vì gió lùa qua hàng cửa trống trải. Những lúc cô đơn đó, cơn
tỉnh ngủ mở ra sự hiền hậu cố hữu của tâm hồn. Tôi sợ hãi như một người
có bộ óc vàng chỉ còn sót lại một chút dính tay. Những lúc sực tỉnh này,
tôi quyết định xin ra tiểu đoàn tác chiến để tìm thấy lại những biểu lộ
tình thương ấm áp như trong những chiều nơi sườn đồi, người lính tơi tả
gầy gò đang cố gắng nấu cho tôi một bữa cơm dưới chiếc lều đơn sơ.
Những lúc sực tỉnh này tôi mới thấy tình yêu là một vật cao quý và mầu
nhiệm — Kết quả như một quá trình nẫy nỡ của tình thương và hy vọng.
Tình yêu, một phẩm vật đã lâu tôi không có.
Những ngày ở trong trung tâm này, tôi còn hiểu thêm
được một điều: Khi chỉ huy một đám đông phải quên con người ở trong đó.
Lính xin đi phép vì con đau nặng; tân binh trên nguyên tắc không được
đi phép, tổng số trăm người, tôi là sĩ quan kỹ luật chỉ trông nom họ
trong vòng hai tháng làm sao kiểm soát được tình trạng của mỗi người,
thế nên phải từ chối. Nhưng nếu nhỡ con người lính đau nặng thật và chết
không thấy mặt bố... Lỗi ở ai? Tôi không chịu đựng được sự tham gia vào
tội ác vô tình tàn ác đó. Cái nghề này đưa tôi đến chỗ khổ sở như tình
cảnh của một nhà độc tài, phải nghiêng hẳn về phía của đa số. Cứng rắn,
độc đoán, hình như đấy là những đức tính cần thiết của một người chỉ huy
tốt. Tôi từng nhìn một vài ông lính già; đầu hớt cao cử chỉ gò bó, ăn
nói cộc lốc, năm tháng nhà binh đã ngấm vào người tạo thành một lối sống
không chuyển dịch. Hạ sĩ nhất hay trung sĩ từ mười năm lính trở lên đều
có một linh hồn phẳng lì như phiến gạch, sau đôi mắt u tối của họ, đố
ai biết nỗi vui buồn giận dữ trong lòng. Kêu lên trình diện để rầy la vì
tội không kiểm soát lính. Người đứng im không nhúc nhích; nghe hay
không nghe? Phản đối hay đồng ý với lời buộc tội? Chào, quay đằng sau,
đi về. Tôi chưa đến nỗi vậy, nhưng tâm hồn bây giờ giống như một mảnh
đất nóng đỏ đang nguội tàn dần. Đằng sau những ồn ào tôi thấy được nỗi
buồn rì rầm có thật.
Tháng 11-1965. Sài gòn
Chương 12: Người Giữ Cửa Thủ Đô
Chúng
tôi không hiểu người dân Sài Gòn quan niệm thế nào về hoạt động phá
hoại của Việt cộng? Những vụ giật mìn, ám sát, khủng bố, súng nổ đầu xa
lộ, phía bót quận 8... Có đủ cho người vùng Sài Gòn, Gia Định những ý
niệm về chiến tranh, thứ chiến tranh phá hoại, không quy ước. Hay vụ nổ
làm sập ngôi nhà đường Nguyễn Cư Trinh, người chết do mìn gài trước Tòa
Đại sứ Mỹ cũng chỉ gây nên thắc mắc nhỏ... Việt cộng đã làm như thế nào
để xem được những khối nổ kia? Tai ương chiến tranh đặt ngang điệp vụ
của loại phim trinh thám. Người Sài Gòn có bao giờ biết, mỗi hoạt động
phá hoại là kết qủa của một công trình nội, ngoại tiếp tay phối hợp với
nhau thật tỉ mỉ và chính xác. Người dân ở Thủ đô có bao giờ biết mỗi lần
biểu tình xuống đường lựu đạn chất nổ được đưa vào Thủ đô nhiều hơn,
Việt cộng xích gần về phía Nhà Bè - xa lộ - phi trường Tân Sơn Nhất thêm
một chút nữa... Một vụ tự thiêu, họp báo là du kích đặc công tiện dịp
có mặt tại Sài Gòn với chất nổ đã gắn ngòi. Chung quanh Thủ đô có trung
đoàn 165 A gồm những đơn vị đặc công, chuyên cận chiến trong thành phố.
Tiểu đoàn 6 trung đoàn này xuất phát từ mật khu Lý Văn Mạnh hoạt động từ
Bà Hom, Bà Quẹo (phần lớn của tiểu đoàn này bị tiểu đoàn 2 Dù đánh tan
đầu năm 1967 tại ấp Vĩnh Hạnh). Tiểu đoàn này đưa một đại đội vào sát
vùng hoạt động của chúng tôi để điều nghiên, thám sát, phối hợp với ba
trung đội du kích ở các xã Bình trị Đông, Phú Lâm, Phú Thọ Hòa. Du kích ở
đâu? Chính là dân chúng ở đây sau khi trốn ra bưng học tập trở về sống
như người thường. Họ cung cấp tin tức và khả năng của các đơn vị giữ Thủ
đô; dẫn đường lực lượng chính qui tấn công vào Sài Gòn; cầm chân quân
đội Cộng hòa khi các đơn vị này rút đi. Những vụ pháo kích vào phi
trường Tân Sơn Nhất là kết quả cụ thể của phối hợp du kích địa phương và
chính qui. Để đối phó lại, những hoạt động trên, ta có những đơn vị chủ
lực và địa phương quân, những đơn vị tổng trừ bị trấn giữ, lục soát tảo
thanh chung quanh ven đô. Nhưng hoạt động chính để bảo vệ Thủ đô thật
sự nằm trên vai những người lính không đồng phục, không qui chế, không
quân số... Những người lính từ lũy tre, sinh và sống trên đồng ruộng.
Người lính Nghĩa Quân, kẻ nhận diện được mỗi du kích, biết tên Thảo chỉ
huy du kích vùng Vĩnh Lộc con ai? Lấy ai? Trốn ở đâu? Người đối đầu với
Việt cộng chính là những người lính, ngày gối đầu trên đôi dép ngủ dưới
hàng cây bên đường làng, đêm họ tập họp lại thành tiểu đội, trung đội
nếu cần, và đấy là nông thôn vùng lên, dành lấy quyền sống, làm người tự
do không cần tuyên ngôn, không hội thảo, xuống đường. Anh Ba đi Nghĩa
Quân từ năm 1962, một khẩu súng, vài trái lựu đạn, thế là anh mang lên
mình bản án tử hình của Việt cộng -Làm tay sai cho Mỹ giết hại đồng bào -
Với số lương 1.200 đồng mỗi tháng!
Tôi biết anh từ năm 1964, lúc Sài Gòn hỗn loạn hơn
bao giờ hết giữa hai phe tôn giáo. Việt cộng ngưng hẳn hoạt động lớn,
dồn lực định đánh về Thủ đô, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích thường
xuyên. Áp lực địch đè nặng trên vùng này, anh theo đơn vị chúng tôi để
chỉ dẫn từng địa thế, nhận diện những người tình nghi.
- Đằng sau cái nhà vuông có con đường, tụi nó hay gài mìn, thiếu uý coi chừng!
- Trong bản đồ tôi không thấy gì cả!
- Đường xe bò đi, bản đồ đâu có ghi. Nhà bà già sát bên quán nước trong ấp Vĩnh Hạnh có đứa con thoát ly!
- Nó đi lâu chưa?
- Đâu khoảng tháng tư năm ngoái, nó tên Long, có con chị thoát ly về rồi, về hôm tháng sáu.
Đại khái như thế anh cho tôi biết từng chi tiết quí
giá mà không một cơ quan tình báo nào có thể cung cấp. Năm 64, 65,
66... đơn vị tôi thay đổi từng vùng chiến thuật, bị thương, bị chết, mất
tích. Những người lính dưới quyền tôi thay đổi hết, nhiều lính mới về,
những khuôn mặt quá trẻ so với già cỗi tàn ác chiến tranh. Đơn vị tôi
gặp đại nạn, tôi sau lần dưỡng thương, làm việc nhẹ, nay tiếp tục đo
chân trên chiều dài quê hương. Bây giờ tôi ởđơn vị mới, trở lại vùng này
gặp anh Ba. Anh nhận ra tôi trước.
- Thiếu uý... A, Trung uý có nhớ tôi không? Tôi tưởng trung uý chết ở trận Đồng Xoài rồi chứ.
- Không chết, chỉ bị thương thôi.
- Mấy người lúc trước đi theo Trung uý đâu? Cái anh "tây lai" người nho nhỏ đấy.
"Anh tây lai nhỏ", tôi kêu một tiếng trong lòng,
Thái, thằng nhỏ theo tôi trong suốt thời gian dài, ích kỷ, nông nổi và
trẻ con, thằng bé thường thủ thỉ với tôi những câu chuyện vu vơ sau
những tối đã đóng quân xong... Bỏ quê hương miền Bắc vào Nam đi lính,
thích đội nón đỏ mặc đồ saut... Chết không được xác định.
- Mấy người theo tôi chết hết cả rồi, bây giờ tôi đang ở tiểu đoàn mới. Còn anh... Có gì khác không?
- Cám ơn Trung uý, bây giờ tôi được lên trung đội trưởng.
Anh Ba bao giờ cũng vậy, sự gian khổ đến một lúc
nào đấy không thể ảnh hưởng được trên anh; mặt anh không thể đen hơn,
người không thể gầy hơn.
- Anh Heo bây giờ thế nào? - Heo, người nghĩa quân
từng hạ hàng chục Việt cộng bằng súng cá nhân, gã lì lợm có thể uống đến
mười xị đế.
- Heo nó bị thương một lần, Trung uý không biết
đâu, khoảng tháng tám năm ngoái, cũng chiều chiều như thế này, tụi thằng
Heo vừa đến ấp Vĩnh Tín thì bị đụng tụi nó. Ông quận đem quân lên bị
đánh dội ra... Tụi thằng Heo có bảy thằng chết ba, bốn thằng bị thương
cầm cự cho đến bốn giờ sáng!
- Anh có bị một lần nào như thế không?
- Có lai rai một lần ở Vĩnh Phước... - Anh bình
thản nhắc lại đoạn thời gian và trận đánh. Vẫn là muôn ngàn trận đánh
điển hình giữa nông dân và du kích, giữ từng tấc đất, từng bờ ruộng,
không phi pháo yểm trợ. Chỉ có lòng yêu thôn xóm, một ý thức về bổn phận
kèm thêm can đảm của con người muốn tồn tại. Đã bao lâu Việt cộng tối
tăm hóa, ngu ngốc, hèn hạ, khêu gợi những bản năng căm thù, mặc cảm giai
cấp và giòng giống để kéo dài chiến tranh, những người Việt Nam ở bên
này không bị nung đỏ bởi hận thù, họ vẫn tiếp tục chiến đấu để làm sáng
mắt người huynh đệ mù tối. Tôi chưa thấy trong lời nói của anh có dấu
vết thù hận. Chỉ kiên nhẫn và chịu đựng.
Tôi bắt tay anh, hẹn ngày mai gặp lại, anh ngồi
xuống vệ đường nhìn ra vùng đồng ruộng. Có mơ ước gì không, người trung
đội trưởng nghĩa quân, một tháng một ngàn bốn trăm đồng bạc, một bao gạo
hai thùng dầu ăn?!! Anh có cái gì để đãi ngộ xứng đáng? Trên đầu chiếc
phản lực bay vút đi như cánh chim. Anh có so sánh và tị hiềm nào không?
Tôi biết rằng anh không biết thế nào là chủ nghĩa
Cộng sản, nhưng anh tin chắc một điều, ngày nào vẫn còn loại người về ấp
phát loa: "Đồng chí Chủ tịch Mao Trạch Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh... đã
nói: Chúng ta phải quét Mỹ xâm lược ra khỏi thôn ấp"... Anh vẫn còn
phải chiến đấu vì anh biết thằng Thảo, đội trưởng du kích đang ở vùng
Xuân Thới Thượng đã cắt cổ ba ông Trưởng Ấp - Anh chiến đấu vì điều này
làm anh phẫn nộ.
Thủ đô nhảy múa, hò hét, chuyển động ồn ào sau lưng
anh, họ nhân danh người Lính, nhân danh Tổ Quốc. Mặc kệ, anh sống xây
lưng về nó - Sài gòn - Thủ đô bạo động và dối trá. Thành phố đè lên vai
anh.
Tháng 4-1966. Bà Điểm.
No comments:
Post a Comment