Tôi là người Huế, sinh ở Huế, nhưng không lớn lên từ đó, không có kỷ niệm, không nhung nhớ, không một mối tình. Giữa tôi và Huế là xa lạ, dửng dưng, không mong ước trở lại. Nhưng, tôi đã sinh ra ở đấy, đất đai đó là nơi trú ngụ đầu tiên. Và cũng chính trên mảnh đất này bạn bè tôi đã đánh những trận đầu tiên trong thành phố, những người bạn từ Sài Gòn, từ một tỉnh miền Nam, từ miền Bắc di cư vào, họ đã chết lạnh lùng, bất ngờ nằm xuống giữa đám gạch xanh rêu không sinh khí. Vậy nên tôi phải viết về Huế. Viết cho tuổi thơ đã qua, lần trở lại bi thảm, viết về một mất mát, nhưng tôi cũng viết cho những tìm thấy thật cảm động. Cảm động rưng rưng nước mắt, cảm động của buổi tái ngộ oái oăm.
Khi lớn lên sau này, ai có hỏi... Người xứ nào...
Tôi thường tần ngần một lúc. Sự ngập ngừng phát sinh từ những mù mờ về
Huế. Tôi là người sinh ra ở đó, nhưng biết được gì trên thành phố ấy,
tên đường không thuộc, chùa Linh Mụ ra sao? Thế nào là con gái trường
Đồng Khánh? Nhớ, nhớ lại một kỷ niệm xa nhất, những hình ảnh ghi nhận
được, những điều còn sót lại trong vùng trí não mông mênh. Nhớ đến chỗ
đầu tiên của hoài niệm tuổi thơ, tôi bốn hay năm tuổi gì đó... Cùng gia
đình về Huế trong đêm khuya. Thuyền đi theo giòng sông, giòng sông đen,
chiếc thuyền len lỏi qua hàng cây um tùm trên nước. Sông nào, tôi không
biết. Cây gì, cây chà là. Sao lại cây chà là? Chắc hẳn đó là do bất chợt
nghe đâu một lần nên tôi đặt tên cho những đám cây đêm đó là cây chà
là. Thuyền ghé bến tôi lên bờ trên tay của cha, ôm chiếc chiếu trong
lòng. Tôi về Huế lần đầu tiên, tôi đến trong đêm, trên giòng sông. Trí
nhớ nào đủ để ghi lại vài hình ảnh mông lung như mặt nước lên tâm hồn
trẻ nhỏ... Và đi ra khỏi Huế sau hai năm. Tôi còn lại hình ảnh nào nữa?
Những buổi chiều cuối năm gió rét, thổi qua những con đường phố im vắng,
hình ảnh một bà già lưng còng, còng xuống thật thấp, bán giò chả, tiếng
rao lê dài qua khu phố theo gió đi xa, lành lạnh tái tê. Buồn hơn cả
mùa đông. Thế là hết kỷ niệm của Huế. Còn gì nữa không? Chẳng còn gì hơn
hình ảnh cô gái nhỏ cùng tôi chơi chiếc xe hai bánh, gồm bàn đạp, tay
lái, chân để trên bàn đạp, chân chống xuống đất và chúng tôi thay phiên
đẩy vào lưng nhau để tăng tốc độ. Tốc độ của đôi chân trẻ thơ nhưng quá
nhanh trên mặt đường lồi lõm đá; đường không người, hai hàng phố cửa
đóng, vẽ hoang tàn hậu chiến, nét linh động chỉ là hai chúng tôi... Thế
là hết và tôi đi xa, xa về miền Nam, Huế đó tôi trả lại cho người, tôi
về miền có biển có núi. Huế không có biển. Ở biển chúng ta nghe được
thằng cuội chặt củi ở trên cung trăng. Một thằng bạn nhỏ khu xóm nghèo
đường Gia Hội đã nói như vậy. Tôi đến vùng có biển và lớn lên từ những
nơi này. Huế không có biển và tôi yêu biển biết bao nên xứ Huế được lãng
quên.
Đà Nẵng và Nha Trang, thành phố bốn bề là biển,
biển trước mặt, biển sau lưng, rẽ qua trái ra biển, rẽ qua phải đến
sông, sông cũng dẫn ra biển, ngồi trong nhà gió biển lọt vào, rịn mùi
muối trên da tay, đêm mùa đông nghe tiếng sóng cuồng nộ từ xa tưởng
chừng như sóng xô đẩy lại kéo trôi phăng thành phố. Thịt bò khô ở Nha
Trang, con ghẹ tươi luộc ở bờ biển Đà Nẵng đối với tôi là những món ăn
ngon nhất, quyến rũ nhất và đáng nhớ biết chừng nào. Chạy nhảy trên
những hòn đá ở Tiên Sa, hà cắt đứt bàn chân, vết thương tươi đỏ đầy máu
không tạo thành đau đớn, chỉ nhức nhức nhẹ nhàng, ngâm xuống nước mặn
thành xót cay, nồng nàn như tuổi mới lớn, như tình yêu ước vọng của năm
mười sáu, mười bảy... Máu chảy hòa nước biển, nước biển theo vết thương
ngấm vào máu thịt, người như hạt muối được hong khô dưới mặt trời. Tôi
ham mê đùa giỡn cùng sóng nước, giữa khung trời xa tít không biên giới
với luồng gió có hương ngát từ khoảng không trên ngọn hải đăng ở Đà
Nẵng; tháp hải đăng xây bằng đá, xanh mướt, trơn bóng vì rêu phủ, gió
bào, muối sát, dõi luồng sáng xanh chỉ có ở giấc mơ. Gió từ bốn phía ào
ào, lau ngã nghiêng theo tám hướng. Tôi sống, lớn lên, yêu đời, yêu quê
hương từ đó. Từ những nơi có gió. Từ một chỗ nào xa xăm tận cùng trời
đất.
Đà Lạt nét đẹp não nùng, tưởng chừng như một nốt
nhạc ngân hoài không dứt. Đà Lạt đẹp, thành phố, hồ Xuân Hương, hồ Than
Thở đẹp nhưng phải đến Ankroet, trèo lên ngọn núi đằng sau nhà máy nước
nhìn xuống thác Vàng, thấy cả trời đất hòa chung dưới đáy. Hồ Ankroet
trong vắt như thủy tinh, xanh tươi hơn tận cùng ý niệm, nằm trong lòng
núi như một chiếc gương yên lặng khẽ gợn vì gió, vì sương đọng, vì núi
nghiêng hay vũ trụ đang xoay, hay do người đang rơi vào ảo giác... Trời ở
trên, trời cũng dưới đáy hồ im lặng! Có tiếng động... Không, chẳng có
gì, lá thông rãi, cỏ đang mọc hay nước hồ đang nở... Nào ai biết, không
ai biết gì của thiên nhiên im lặng đó chỉ nhìn và nhìn tận cùng với hết
con người. Trong vòng tay của núi và biển, tôi đi xa Huế vô cùng. Huế
của đêm tối hồi cư, dòng sông đen đe dọa của tuổi thơ làm sao kéo được
tâm hồn tôi trở lại.
Bây giờ là năm 1967. Chiến tranh đầy trên quê hương
như đàn ruồi trên đống rác. Tôi đang ở Sài Gòn. Ôi Sài Gòn, làm sao
thấy được mặt trời mọc lúc nào, lặn ở đâu. Đâu bốn hướng đông, tây, nam,
bắc... Thế nào là màu xanh, súc vật nuôi trong nhà, màu xanh tím và hơi
mát khu đường Cường Để, vùng nhà thương Grall trông tội nghiệp, vá víu
giả dối và còm cõi! Sài Gòn với một khoảng thiên nhiên mơ mộng của xa
lộ, vài cây dừa xơ xác, một dẫy đất hoang cỏ mọc úa vàng bị đóng khung
bởi Cát Lái, Thủ Đức, Bình Lợi...
Việt Nam 1967, tôi lính chiến như một thanh mã tấu
cùn rĩ, ném vào trong một đống rác vĩ đại. Đà Nẵng thì hết rồi biển
Thanh Bình, hàng cây dương mới lớn của mười năm về trước nay cằn cỗi
vướng vít kẽm gai bao bọc trại lính. Bờ biển thuở xưa có cái lô-cốt bị
chìm bây giờ đầy nhà cửa. Thôi còn gì nữa đâu, hết cả khoảng trời xanh,
tiếng sóng vỗ cuồng bạo vào bờ đêm mùa đông, biển tối âm u, hàng đường
liễu ngập nước như một khu rừng nổi... Tất cả không còn gì nữa, núi Tiên
Sa Mỹ đặt đài radar, con đường lên núi đỏ thẩm giữa màu xanh của lá như
một vết thương chưa khép. Vị tiên nào đã sa xuống vùng núi hoang vu
tuổi trẻ của tôi ngày xưa chắc bây giờ đã lăn lóc chiếc cánh bên cạnh
đống vỏ bia. Tôi còn được một vùng thơ mộng nào trong quê hương?
Trong thời gian này tôi trở về Huế. "Trở về". Sao
lại dùng chữ này? Phải đi thì mới gọi trở về. Hay tôi đang trở về quê
cũ? Chiếc C-130 xuống phi trường Phú Bài vào buổi chiều mưa mờ mặt. Ôi
mưa, mưa đúng nghĩa của mưa, mưa đầy mặt, mưa cách nhau khoảng năm mươi
thước không trông thấy, mưa không rõ hạt, chỉ một màn nước dày bao trùm
cảnh vật. Tất cả xám xám ốm yếu thê lương, không chân trời, không hàng
cây, không nhà cửa. Tất cả dựng khối đen lù mù im nín, không một hoạt
động tồn tại, tan biến lặng lờ dưới sức nặng dị thường của hạt mưa. Mưa
từ bao giờ? Hỏi người bạn đơn vị đã ra trước. Lâu lắm rồi, cả tuần nay.
Không tạnh? Tạnh sao nổi. Mưa khắp nơi như từ một khoảng không bốc hơi
và vạn vật đang tan thành nước. Tôi bước xuống trong vũ trụ lạnh tanh
đó. Người biến vào mênh mông.
Mưa Huế ào ào phủ xuống đầu chúng tôi khi từ máy
bay chạy nhanh vào trạm hàng không. Ai đã ghét mưa Huế vì phải chịu đựng
nó quá nhiều, chắc tôi cũng ngao ngán vô cùng khi đi dưới cơn mưa nước
ruộng ngập đến háng và bùn gần đến đầu gối từ Quảng Điền lên Phong Điền.
Nhưng bây giờ mưa Huế đang chung quanh tôi, mưa của quá khứ, của tuổi
thơ, tuổi lớn đang hòa vào nhau trì chậm, quay đều trong một không gian
im lặng...
Huế đón tôi trong cơn mưa, tôi lên xe trở vào thành
phố, ra lại ngoại ô, đóng quân ở một làng có cái tên độc đáo, đặc biệt
nhất của Việt Nam - Sịa. Sịa là gì? Là sình đọc trại? Không phải, cái
tên đặc biệt, âm vang như một nốt nhạc lạ. Sịa, tôi sẽ hoài hoài nhớ,
hoài hoài thắc mắc sao quê hương ta có những địa danh vừa kỳ cục vừa lạ
lùng, quê mùa nhưng không thô, mộc mạc, bình dị và độc đáo! Ở đâu có
Sịa? Chắc chỉ có Huế và đúng chỉ là có Huế.
Hành quân, mục tiêu 1,2,3... Đại đội 91, 92 chiếm 1
và 2 xong đợi ở đấy, làm blocking-force về hướng đông để đại đội 94
chiếm mục tiêu 3... Mục tiêu 3, tôi nhìn vào bản đồ: Đồng Xuyên, làng
Đồng Xuyên khu xóm nhỏ phía tây giáp ruộng, phía đông cồn cát. Sau cồn
cát là gì? Phá Tam Giang. Phá thì lạ lắm, nhưng phá Tam Giang đã rất
quen biết, lớp ba hay lớp nhì, ai chẳng một lần đã ê a trong "Tập Đọc
Vui" hai mươi năm về trước. "Đường vô xứ Huế quanh quanh. Non sông nước
biếc... Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang". Phá Tam Giang là tuổi thơ
thứ mười của tôi. Tuổi nhìn đời đầy dẫy những câu hỏi: Tại sao đã yêu em
nhưng lại không muốn vô? Đấy, phá Tam Giang tôi đã quen thuộc với nó
lâu hai mươi năm rồi còn gì nữa? Phá Tam Giang, nỗi mơ mộng đầu tiên của
tôi, vùng thần thánh của những lần rung cảm ngây ngất khi đọc đến: "Yêu
em anh cũng muốn vô..." Đi dọc theo bờ của phá, bên trái dãy Phố Buồn
Thiu, nơi B. Fall vừa chết tuần trước; người thông thuộc biến cố của
Việt Nam nhiều nhất trong vòng hai mươi năm qua, nay vì trái nổ oan
khiên bỏ lại đời đằng sau.
Dọc theo phá, đi hoài, đi mãi... Giữa trời đất bao
la, ảnh bao la giăng giăng u uất, không rộng rãi của biển, xanh thẫm của
núi, đây là hoang vu tiền sử, cỏ úa xanh nâu trãi dài đến chân trời. Bồ
nông, hạc, hải âu bay từng đàn nặng nặng, buồn buồn, chim bay như cố
gắng, như thở dài, như hấp hối... Bay một đoàn đầy trời, rồi cả đàn cùng
dừng lại, tiếp tục bay đi, không phương hướng, không ào ạt, không khỏe,
không hùng; đàn chim loang lỗ, đen trắng thấp thoáng trên cỏ khô, lúa
mục. Đây là hoang vu sao lặng gió, con phá rộng mông mênh không bờ bãi,
không vết sóng, chỉ một cánh buồm không no gió... Phải chăng buồm hoang,
thuyền ma. Trời xám, cỏ xám, con sóng nhỏ, cánh buồm phiền, đàn chim
mệt mỏi... Đây là cảnh gần tàn, đời sắp đóng, trời đất âm u để sửa soạn
cho lần đổ nát. Bây giờ mới thấy Nha Trang quá trẻ trung, Đà Lạt quá
sang trọng, Sài Gòn còm cõi không sinh khí. Đây mới là khuôn mặt thật
của quê hương. Tôi nghĩ vậy. Câm nín, u uất, nặng trĩu buồn rầu. Quê
hương ta, khuôn mặt thật chắc là đây. Lên đến Phong Điền nhìn lại bản
đồ, mười bảy cây số đường chim bay. Người nát rời từng mảnh, trời rét
nhưng người quá dơ,bùn từ tóc, từ mặt, bám đầy trong hốc mũi, trong tai,
bùn rơi từ cái dụi mắt, chớp mày. Xuống bến sông, bên kia là Quảng Trị,
bên này là Thừa Thiên, sông chảy ra phá Tam Giang, sông chảy từ Quảng
Trị vào, từ núi ra, một nhánh nhỏ của sông Ô Lâu, nhưng đến đây chảy qua
Mỹ Chánh sông mang tên khác. Hỏi cô giáo. Cô giáo thẹn như cô gái mới
lớn, cô giáo mặc áo đen quần trắng, áo len đen, da trắng mát tự nhiên,
môi đỏ hồng, mắt thật xanh. Cô giáo bao nhiêu tuổi? Dạ hai mươi lăm.
Sông gì? Dạ thưa, sông Thu Rơi! Sông Thu Rơi. Tôi cười... Cô nói đùa hay
thật. Dạ thưa sông Thu Rơi. "Dạ thưa sông Thu Rơi". Tôi rưng rưng cảm
động. Ai đã đối thoại với lính lễ độ, kính nể đến như vậy. Sông mang tên
Thu Rơi, tên thật thường nhưng chất ngất lãng mạn và đôn hậu, dân làng
đã nghĩ sao khi chấp nhận tên này. Phải chăng là thi sĩ? Phải chăng tên
đã thành tự nhiên như câu hò, câu hát.
Ngược đường về, từ mục tiêu 15 trở lại mục tiêu I,
ấp Đồng Xuyên, ấp Mỹ Xá, đã đọc đi đọc lại nhiều lần từ bao nhiêu ngày
trên bản đồ, đã đi qua bốn ngày trước, nay trở lại sao lòng nôn nao cảm
động — Đồng Xuyên, Mỹ Xá... Đúng rồi! Nơi chốn này thuở xưa mẹ tôi đã
một lần đi đến, sau lệnh tổng phản công của Việt Minh năm bốn mươi sáu
"Vỡ mặt trận rồi chạy về Đồng Xuyên, Mỹ Xá, sau đó mạ gánh con về ở tại
Gia Lê". Mẹ tôi thường hay nói vắn tắt như vậy để trả lời cho tôi mỗi
khi tôi hỏi về những biến cố của "Vỡ mặt trận...". Tôi nhớ mãi nhớ hoài
mẹ tôi với câu nói đó. Bà hay nói những chữ Huế mà những ngày ở Đà Nẵng,
chúng tôi, hàng xóm phải ngẩn ngơ không biết. Mẹ tôi là người Huế, nơi
này bà đã gánh tôi một đầu đòn gánh, đầu kia áo quần, soong chảo trên
cánh đồng này hai mươi hai năm trước, chân trần tay lấm, cong chiếc lưng
học trò mảnh mai để gánh tôi băng qua những đồi cát mênh mông bắt đầu
từ Mậu Tài ra đến Đồng Xuyên, Mỹ Xá... Nơi này, cha mẹ tôi đã thương yêu
nhau trong cảnh chết, tiếng nổ trên đầu, viên đạn rạch không khí bay
xuyên tim người dưới đất. Nơi này cha mẹ tôi đã lấy sức mạnh xác thân và
tình thương mang tôi qua gió bão...
Hôm nay, mùa đông 1967, tôi đi qua, trên đất như có
hồn, cỏ có dấu vết, biết đâu mẹ tôi đã ngừng ở đây, lấy nón quạt cho
tôi, cha tôi đã cúi mình trên bờ mẫu để gạn lấy phần nước trong mát nhất
cho con. Giòng nước luôn trôi chảy, mẹ cha làm sao biết được hơn hai
mươi năm sau đứa con trở lại một lần nhìn xuống để thấy gương mặt thật
của mình trên suối dòng bất diệt quê hương.
Về Huế, nghỉ quân đóng ở Nam Giao, nơi thuở xưa vua
nhà Nguyễn tế lễ trời đất. Trăng mùa đông huyền bí dọi sáng xanh nhạt
thếch xuống một vùng cổ mộ... Emile Bronte, Dostoiesky, Mai Thảo, Võ
Phiến, rrải dài trên tác phẩm bóng dáng quê hương họ thương yêu, hoài
niệm, nếu không phải ca ngợi nồng nàn, thì cũng là bối cảnh cho những
tình yêu, thù hận, hay điều ám ảnh. Tôi không là nhà văn, nhưng nếu có
chọn lựa tôi sẽ viết về Huế trong tác phẩm của mình. Lạ lùng lắm, bí ẩn
lắm, ngôi mộ nằm yên dưới bóng thẩm cây tùng, cây thông, trăng soi
xuống, gạch đá như thở, như hấp hối thì thầm, rầu rĩ. Sông Hương đứng từ
ngọn đồi lăng Khải Định nhìn xuống, không phải là sông của nước chảy,
nhưng là núi xô nhau đi về nơi xa, sức xô đẩy lả lơi theo cỏ tranh,
giăng giăng chập chùng đồi sim dại. Núi không cao, không phải núi, gọi
là đồi mới đúng, không cây cỏ chỉ có toàn một thứ đá nâu lớn bằng ngón
chân. Đồi trùng điệp nối dài, nắm tay nhau, dựa vai vào nhau, chuyển
động nô đùa trên mặt nước. Vua Gia Long chọn Huế thật phải, sông có, núi
có, rừng thưa, rừng mới lớn chạy bước nhỏ dưới chân đồi như bầu bạn. Và
đằng xa kia, xa ở chân trời... Biển... đủ hết,cả bốn mùa thời gian, cả
vóc dáng thế giới hợp vào đây, không lớn, không vĩ đại, không ồn ào, nhỏ
và xinh như non bộ, giả sơn. Như cảnh mơ của em bé.
Dừng xe trên đồi, tắt máy, tắt đèn, đốt điếu thuốc
nhìn xuống dòng sông, thả khói bay vào núi, bay xuống mặt nước xám mờ,
sương lạnh, mưa sa hạt nhỏ... Có ai hỏi gì bây giờ, chỉ xin im lặng như
cơn thở than trầm mặc... Vì tiếng hò đã cất lên. Tiếng hò xua nhau như
sóng nhỏ vướng phải bụi bờ chìm xuống nghe thê thảm, quá đỗi buồn rầu.
"À... ơ... Ai về Đại Lược." Chữ "lược" xuống thật thấp như cố nuốt tủi
hờn, chặn giòng nước mắt, che dấu cô đơn. À... ơ... Không thêm một chữ
nào có ý nghĩa, chữ "ơ" đưa lên cao từ từ rồi mất vào với gió với trăng,
làm rợn những gai ốc trên da thịt. Hò như thế mới gọi là hò, Nam Ai như
thế mới đủ năng lực diễn tả hết nỗi buồn rầu chất chứa toàn thể đời
người phổ vào những tiếng à, tiếng ơi vô nghĩa. Một phút, hai phút trôi
qua, thuyền đi được khoảng sông, câu hò chỉ được bốn chữ "à, ơ" ngân dài
trên nước, oan uổng thê lương dật dờ như thây ma trôi sấp. Tôi nghe
bằng tai nhưng hồn tôi ai đem treo trên đầu ngọn gió, ai đem ướp dưới
đáy sông... Thật muốn khóc... Muốn rưng rưng nước mắt!! Sao có cảnh trầm
mặc, sao tiếng hò thê lương, buồn đến thế này... Nguồn đau thương dân
tộc đã mất những gì, còn lại những gì... Hay mãi mãi đổ vỡ tận cùng,
không bao giờ sống lại...
Tôi ở Huế một tuần, bún nước, bún khô, bánh khoái,
nem chua, ăn thật nhiều, thật ngon. Tôi vốn không thích ăn ngon, không
coi trọng chuyện ăn uống. Lính tráng kham khổ quen cơm hẩm, dăm miếng
thịt mỡ, vài cọng rau, bi đông nước lã là xong bữa ăn. Bao nhiêu năm tôi
không có dịp để chọn món ăn. Về đến Sài gòn gặp gì ăn đó cho lạ miệng,
ăn với bạn cho vui, không hề ham. Nhưng ở Huế ăn phải thích, ăn nữa
không chán, ăn bao nhiêu bún cũng không vừa. Phải tới quán cho kịp giờ,
trễ là hết, quá năm giờ tiệm bún ở đường ngang với đường Gia Hội nhất
định hết. Người Huế lạ lùng như vậy, không thay đổi, không bị lôi cuốn.
Mười năm trước vẫn một nồi bún, bây giờ cũng vậy, khách đông, khách chờ,
khách đòi hỏi. Mặc! Hết là hết không nấu thêm. Ngày ế khách, ngày mưa
gió, không bớt. Vì khách là khách quen, xóm bên kia đường, đằng cuối
phố, nhà nào, mấy người, ý thích của mỗi ai... Người bán tất biết rõ.
Bán như thể rảnh rỗi, thức ăn như một tác phẩm, nhiều quá sẽ thành thừa
mứa, tầm thường. Giữa khách và chủ là bạn thân, họ hàng. Người Huế sống
với nhau thật khít khao. Nhà anh ấy, bác ấy có con thi đỗ cùngmừng; kÿ
đám cả xóm xúm vào giúp nhau. Nhưng chính ở đây cũng là nơi xuất phát
những cực đoan lộ liễu. Thầy trên chùa nhất định là đại từ, đại bi, dù
vào đến Sài Gòn nghe ai nói xấu đến thầy tức khắc lồng lộn, tức tối...
Không thế được, thầy không xấu như người ta nói!!
Chúng tôi trở lại Huế bằng máy bay trực thăng trong
ngày mùng bốn Tết Mậu Thân. Trời thật lạnh, mưa phùn, u ám thê lương
bao phủ thành phố. Máy bay nghiêng nghiêng trên đà xuống, hạ thấp dần,
khu doanh trại Bộ chỉ huy Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Chúng tôi ùn ùn kéo ra khỏi
phi cơ. Sau ba ngày đánh nhau ở Quảng Trị với số mất mát khá lớn mặc dù
chúng tôi đã được cả một đống vũ khí chất đầy một GMC. Mới đây, Giao
thừa chúng tôi còn gọi nhau trong máy truyền tin để chúc tụng những lời
đầu xuân, rồi ngày mùng Một, tôi nhớ rõ, bốn giờ sáng, từ đó là khởi đầu
máu chảy... Vừa hay tin Thừa chết, đến Lộc, đến Hổ, bạn quen lâu, mới
quen, thương mến thật nhiều, tất cả ra đi từng loạt từng loạt. Trong
những ngày đầu năm, trong những ngày đầy sương muối và mưa phùn, chúng
tôi đã chiến đấu đơn độc và tuyệt vọng. Lính Mỹ án binh bất động nằm chờ
thời. Không phi cơ, không pháo binh yểm trợ. Chúng tôi đến Huế với vô
cùng mỏi mệt.
Kiểm điểm lại quân số, tấn công và chiếm lại Huế,
mục tiêu là mấy cổng thành. Ngày đầu quân tiến thật nhanh tràn qua Tây
Lộc, xong tiếp đến cửa Chánh Tây, giao lại cho bộ binh. Tối đến cổng
thành lại mất. Chúng tôi bắt đầu chiếm lại, và từ lúc này chiến trận đã
xảy đến ác liệt. Phi cơ bắt đầu can thiệp, pháo binh yểm trợ và địch
tăng cường cố thủ. Chúng tôi tiến lên từng đường, từng ngõ, từng nhà.
Thành nội Huế với đường nhỏ vuông vức bàn cờ, tiến quân như đi trên cái
chết. Qua được một đường, tiếp tục bắn che chở cho khinh binh; khinh
binh chạy thật nhanh, nhanh hơn nữa, nhanh để đua với tử thần, nhanh để
sống, để thở, để cười, để còn về lại Sài Gòn. Quân tiến thật chậm đến
con đường Mai Thúc Loan thì bị chận đứng. Can đảm đứng lên băng qua là
chết. Bộ chỉ huy Việt cộng đóng ở trường Bồ Đề nên con đường biến thành
tuyến phòng thủ. Cửa Đông Ba cách hai trăm thước không thể nhào vào
được. Việt cộng đào giao thông hào, phát súng cho trẻ con mới lớn, gã du
đãng muốn làm anh hùng, chủ tiệm bán cà phê được lên làm cấp chỉ huy.
Tất cả mặc cảm về yếu kém, vô ích, mặc cảm bị xem thừa, bỏ rơi, tất cả
được Việt cộng lợi dụng đến triệt để và tập hợp thành lực lượng lớn để
đè bẹp chúng tôi. B40 nổ như muốn nhức có. Em bị rách áo, hai đứa con
nghỉ phép dài hạn. Dồn dập, dồn dập. Đơn vị mệt và căng thẳng như con
khô nung chín.
Lệnh tấn công trở lại, có pháo binh và phi cơ yểm
trợ. Lần đầu tiên của đời lính, tôi đánh nhau trong thành phố và hủy
diệt thành phố. Huế, Huế của tôi vừa tìm được, Huế của Việt Nam luôn cố
duy trì để trường cữu đang sụp đổ, đang cháy đỏ tươi. Trước mắt tôi
tường vôi, mái ngói bị ném lên tung vỡ. Lửa cháy thành ngọn yêu ma kinh
dị. Lửa củi, lửa than nghe ấm, nghe vỗ về. Lửa nhà cháy có tiếng kêu như
than, như khóc, như tức tưởi, nhu hú lên vì sợ. Lửa nhà cháy ở thành
phố là lửa tai ương, lửa bất hạnh, lửa có mùi... Mùi người chết, mùi của
xương, của da, của thịt bị nung nóng thành than, thành một vật chất
quái dị, khô đặc, nức nẻ, đụng vào thấy ươn ướt nhầy nhầy... Huế trước
mặt tôi sụp đổ từng miếng một, nghe đau xót như tình nhân bị cưỡng hiếp.
Tôi đã từng chứng kiến nhiều đám cháy ở Kiến Hòa, Bồng Sơn... Tiêu
điều, tan nát! Đúng như vậy, nhưng chưa đến độ thấm đau đến phải bật
khóc. Ở Kiến Hòa thì thấy tiếc - phải - chỉ tiếc nuối một phần vật chất
bị hủy hoại. Nhưng Huế cháy, gạch bát tràng, ngói âm-dương, tượng Di
Lạc, tượng Thích Ca, Kim Cang, Thiện-Ác, lớp rêu trên viên đá, đầu
trường thành cây kiểng trồng từ đời Gia Long, Khải Định... Tất cả chúng
đều có linh hồn, không chỉ là đất đá, cây thuần túy... Chúng có kỷ niệm
trong lòng, chúng là vết tích hoài hoài mà chúng ta luôn nhớ. Đó là cổng
thành vua đã đi qua, đó là Phú Văn Lâu nơi xướng danh những người thi
đỗ, này cung vua, lầu Hoàng hậu, con đường đi có mái để đưa hậu về cung
son. Con người đã đi qua, nhưng dấu vết lịch sử còn đó. Tôi người mới
lớn trên quê hương, thấy lạc loài, bây giờ vừa tìm được, mong tay bắt
mặt mừng, thì Huế đã cháy, đã đổ. Tôi thấy đau, đau ngẩn ngơ, như thuở
bé có món đồ chơi, rồi phải tự tay đập phá. Chiếc cổng thành xây bằng đá
tảng đi qua mát lạnh mênh mông, bây giờ đổ xuống thiểu não như một thi
thể già nua. Phi cơ xuống ầm ầm, tiếng nổ, đám khói mù mịt... Huế rên
lên từng tiếng não nùng, tiếng kêu la gào thét của những mái cung điện,
hàng cửa sổ trên lầu Ngọ Môn. Vong linh tiền nhân còn có nơi đây? Không
còn ai! Chỉ còn bức tượng đá đăm chiêu nhìn ra một sân chầu bị trốc
ngược.
Trong lửa cháy người Huế dẫn nhau chạy loạn, cha
cõng con, chồng dìu vợ, con bế cha, mẹ già. Tất cả bình yên đẹp đẽ, đài
các của ngày xuân tan thật nhanh trong lửa đạn. Đào thêm một nhát cuốc
nữa cho đủ sâu, cô gái tóc xanh hôm qua nay đầy bụi bặm, vành khăn tang
quấn vội trên đầu, tay nắm chặt cán cuốc, cuốc những nhát cuốc đầu tiên
trong đời để nên huyệt cho người thân. Người chết ở đâu nhiều quá, xác
chết của lính, dân hay Việt cộng, chon ở lề đường, sân chùa, sân trường,
chôn ở đâu có đất. Chôn ngay chỗ ngã xuống, nằm yên lần cuối. Thôi
người chết hãy ngủ yên. Thôi Huế hãy nuốt cơn đau.
Người Huế chết như trò chơi, như nằm ngủ, theo lính
chạy về Mang Cá, bị B.40, AK quét ngã, ở khu Gia Hội thì do pháo binh, ở
khu Đập đá chết bởi súng cối từ chùa Diệu Đế bắn về... Chết, chết ở đâu
cũng có, vì đạn, vì mảnh, vì hơi ép, vì chôn sống. Một ngàn cách chết,
đầu đường, góc phố, xác chết nằm cong queo, nằm thẳng cẳng, sấp ngữa,
kinh hoàng, uất ức, trăn trối... Làm sao nói cho hết, làm sao nói cho
cùng. Hỏi trời, hỏi đất, hỏi Thượng Đế... Tôi muốn hỏi, muốn kêu, muốn
hét nhưng hình như mọi phản ứng đã thừa, đều thiếu hụt, không đủ nghĩa.
Im lặng. Chỉ có tiếng than im lặng đó, chỉ có nó. Chỉ có nó vang lên,
vang lên.
Phi trường Phú Bài, đoàn quân sau mười lăm ngàylửa
đỏ đi trong nghẹn ngào xơ xác, không tăng viện được, chúng tôi trả lại
Huế cho đơn vị bạn. Đoàn quân im nín, trong mắt mọi người đều sáng lên
ánh lửa - Xin cho tôi xa nơi này, nơi địa ngục. Riêng tôi, tôi hứa rằng
sẽ trở lại. Trở lại nơi đây, nơi bạn bè tôi đã nằm xuống không quan tài,
vùi xuống ở khoảng địa cô quạnh bên cạnh đồn Mang Cá.Tôi sẽ trở lại nơi
đây vì tôi bỏ qua hình ảnh những gã trai hai mươi, mười chín, những cô
gái muốn làm anh hùng ngã tắt, những trí thức làm dáng một lần vì mặc
cảm rồi lao theo quỉ sứ. Những kẻ đó mới hôm qua còn tầm thường, còn
đứng trong bóng tối, nay trở thành Uỷ viên, nay làm cách mạng, mang AK,
đeo băng đỏ đi xe Honda, Suzuki, ném lựu đạn... Ôi cái ảo tưởng anh hùng
sao mà vẫn còn hấp dẫn đến thế! Tôi quên những hình ảnh lố bịch và đáng
phẫn nộ đó vì tôi biết rằng ở Phú Cam, người Huế đã chống cự bằng
Garant, Carbin M.1 suốt mười mấy ngày dài. Họ đã chiến đấu trong dũng
cảm nhất với ý thức rõ ràng về sự chọn lựa cho con người một vị thế.
Đáng lẽ tôi phải viết thêm để nói về trận đánh bi
tráng và tuyệt vọng của tiểu đoàn tôi, tiểu đoàn 2 và 7 Nhảy dù trong
suốt mười lăm ngày, kể từ ngày mùng một và mùng hai tết... Những trận
đánh từ làng Đốc Sơ nơi cầu An Hòa vào đến sân bay Tây lộc. Những đơn vị
bạn đã chiến đấu trong đơn độc không yểm trợ để chiếm cho được cổng An
Hòa. Tôi phải nói cho rõ, nói cho cùng cái can đảm thần thoại của đại
đội 92 với quân số trên bốn mươi người, chỉ hơn một trung đội Mỹ năm
người, Thành "Râu", đại đội trưởng bị thương phải chống gậy chỉ huy
chiếm cửa Thượng Tứ, bị kẹt lại suốt hai ngày đói và khát. Tôi phải nói
cho hết niềm kinh hoàng tột độ của thằng bạn thân – Lô - đại đội trưởng
74, người cao chỉ đến một thước sáu, lưng mang máy truyền tin, vừa chỉ
huy vừa liên lạc, sử dụng luôn khẩu đại liên 60 chận địch cho quân sĩ
rút lui trước, bị thương gãy chân kẹt giữa hai lằn đạn trong suốt một
buổi chiều. Nhưng khốn nỗi tôi không tham dự trực tiếp trận đánh nên
không thể viết trung thực được và điều giả dối ai nỡ đem vào trong văn
chương. Nên nhân cảnh loạn ly tôi nói đến con người. Không nhớ có ai đã
phán ra câu đại để: "Trong gian nguy mới nhìn rõ mặt người". Điều này
đúng quá, những ngày khói lửa ở Huế, tôi mới có dịp để nhìn thấy người
Huế, người của quê hương từ lâu tôi không gặp.
Tôi có một người chú họ, chú Bộ làm Cảnh sát, bị
Việt cộng bắt cùng đám người công chức hoặc quân nhân, Việt cộng dẫn họ
đi tải đạn và cuối cùng thì bắn chết tập thể. Chú tôi, một người chậm
chạp, có thể gọi là lù đù, ngớ ngẩn vì rượu đã làm cho ông suy nhược trí
óc lẫn thể xác, thế nhưng khi Việt cộng bắt đi theo vác nặng bao nhiêu
ông cũng chịu đựng nổi, mặc dù một chân đã bị gãy từ trước, và đến lúc
Việt cộng bắt đầu hành quyết, không biết do một sức mạnh và khôn khéo
nào, ông đã trốn thoát được. Về nhà sau năm ngày lẩn trốn, ông vẫn chậm
chạp và ngớ ngẩn như thuở nào. Bác Soạn, người có ngôi nhà cạnh nhà bà
nội tôi, luôn luôn đứng vào hàng ngũ những người chống đối chính phủ,
bác thuộc phe phái thầy ở trên chùa, từng bị Chi bắt đem giam tại trại
bài trừ du đãng mấy tháng sau vụ biến cố miền Trung năm 1966. Việt cộng
vào thành phố Huế cùng với sự trở về của những thanh niên trên dưới ba
mươi, lớp tuổi của những đồng chí của Ngô, Dinh... Những người bạn tôi
đã trốn ra khu trong những năm trước, nay trở về với chức ủy viên này
nọ. Tôi không hiểu có những gì đã biến đổi những người trẻ tuổi đó,
những trí óc trẻ trung vị tha, trí thức ngày nào bây giờ trở nên những
tâm hồn cứng rắn, trì trệ, hung tàn và hiếu sát. Có gì đã biến đổi họ để
ủy ban nhân dân có đủ quyết định chôn sống từng loạt người sau trường
tiểu học Gia Hội? Công chức, thuế vụ, công chánh, cảnh sát... Tội ở đâu?
Hay vì đã từng bắt giữ một người đi xe đạp không đèn, người ấy bây giờ
làm ở uỷ ban nhân dân?! Hận thù nào để chôn sống một nhân viên công an
vì người này đã một lần dọa "bắn vỡ đầu" một người bà con của một ủy
viên, thật tình tôi không hiểu động lực căm thù, chính sách khủng bố nào
đã chỉ đạo cho những cuộc tàn sát tập thể trên. Người Việt cộng vào
thành phố, được đón tiếp bởi những kẻ nằm vùng, chính lớp người này mới
thật khó chịu, hống hách, cuồng sát và thâm hiểm một cách đáng sợ. Hình
như bao nhiêu mặc cảm yếu đuối, thừa thãi từ bao năm được bù trừ lại
bằng vinh quang nhất thời, họ hối hả hưởng cho hết cái uy quyền què cụt
trong giây lát. Họ tố người này, bắt người kia, tuyên án giết người thể
như một trò đùa. Những tên trẻ tuổi tay mang băng đỏ, lưng đeo AK, lái
xe Honda lượn khắp thành phố, kênh kiệu và tàn ác như một loài thú. Một
cô gái trong ba ngày tố khổ và tuyên án gần hai mươi người. Nữ sinh viên
mắt sáng, mũi cao, đẹp thật tươi, nhưng sao độc ác đến ngần ấy? Khi
tiểu đoàn tôi bắt được, cô ả kháng cự lên tiếng thách thức, nhưng khi
nòng súng của Sơn Bum dí vào người, cô gái mới tỏ vẻ sợ hãi. Tôi nghĩ
rằng giây phút sợ hãi đó là cơn tỉnh giấc của một thời gian mộng du đẫm
máu.
Những ngày ở Huế tôi còn được nghe tin Việt cộng
bắt Thượng Nghị sĩ Trần Điền và sau này chúng chôn sống ông. Tôi thuộc
về hàng hậu bối, xa xứ Huế không biết nhiều về ông, chỉ biết ông qua vóc
dáng một trưởng Hướng Đạo. Ông có Đệ Ngũ đẳng Bảo Quốc Huân Chương, khi
chính quyền ông Diệm kết án ông về vụ Ba Lòng, ông đưa chiếc huy chương
đó để biện minh lòng yêu nước. Thuở ấy Bảo Quốc Huân Chương là một cái
gì hiếm có chứ không phải như những anh nhà binh sau này cứ đi lính lâu
năm, hội đủ điều kiện thâm niên, một vài cái huy chương văn phòng nhưng
tính điểm cao hơn Anh Dũng bội tinh nhành dương liễu, cộng chung tất cả
lại đủ để có Bảo Quốc huân chương, ra tòa án với các vụ lẩm cẩm như ăn
cắp, thụt két, hiếp dâm, giết người vì ghen hoặc thủ tiêu đàn em vì sợ
thằng nhỏ "khui" mình... Thường đem Bảo Quốc huân chương ra chạy tội!?
Kết quả vụ án trên ông được giảm khinh. Nhưng điều tôi nhớ về ông nhiều
hơn hết là giọng nói đĩnh đạc, hùng hồn, âm thanh cuốn hút người nghe.
Lòng trẻ con của tôi thuở trước mở ra nhìn ông như một vị huynh trưởng
sáng giá, ông có tên rừng "Gà Hùng Biện" theo luật của Hướng Đạo. Bây
giờ nghĩ lại, ông quả là một huynh trưởng sáng giá thật, khi bị bắt, ông
thẳng thắn nhận mình là một Thượng Nghị sĩ của chế độ Cộng Hòa, ông vẫn
giữ nguyên tinh thần bất khuất của một Tráng Sinh đã lên đường. Con ông
là San, khóa sau tôi đi Biệt động quân, tôi nghĩ rằng với uy tín ở miền
Trung ông có thể "chạy" cho San về một chỗ ở văn phòng, nhưng ông không
làm như vậy, San đã đánh trận đánh đáng tiền nhất của Vùng I Chiến
thuật năm 1965 - Trận Ba Gia. Ngày Việt cộng phản công chiếm lại đồi,
tiểu đoàn San bị tổn thất nặng, nó thoát chết chạy về Đà Nẵng ngơ ngác
như một bóng ma. Có phải thế không San? Mày không biết tao là ai, nhưng
tao biết mày là đội trưởng đội Hổ đoàn Nguyễn Trường Tộ, thuở nhỏ tao
muốn được hãnh diện của mày - Con của trưởng Điền, "Gà Hùng biện". Bây
giờ ông chết như một người Hướng Đạo sinh trong sạch từ tư tưởng, lời
nói... Mày cho tao chia sẻ cùng vinh dự này.
Người Huế thuở xưa đã thực hiện một chiến công
không thành nhưng biểu lộ cách can đảm hùng tâm, dùng sức người vây hãm,
tấn công vào khu Morin của người Pháp trấn giữ đầy vũ khí. Mùa xuân năm
nay cũng vậy, những con người bình thản như dòng sông kia đã chịu đựng
nghiệt cảnh bi thảm không biên giới, và họ đã chiến đấu hết sức của một
người. Khu Phú Cam, bằng Garant và Carbin M1, thanh niên và lính chuyên
môn ở các trại quân cụ, công binh đã chống cự với Việt cộng cho đến ngày
cuối cùng. Và tôi nghĩ rằng hình ảnh bi tráng nhất của chiến tranh này
là trong buổi Huế điêu tàn người Huế đã hát quốc ca khi lá cờ Vàng dần
lên cột cờ loang lỗ dấu đạn... Người Huế đã cất cao giọng hát trong gió
lạnh, hòa mưa bay khi nước mắt lăn dài trên gò má. Huế ơi! Quê Hương!
Tôi muốn khóc hôm ấy. Tôi muốn khóc biết bao nhiêu...
Tháng 2-1968. Huế Mậu Thân.
Chương 20: Nghĩ Về Một Kẻ Thù Kiệt Lực
Xe
chạy, bỏ Sài Gòn về An Phú Đông lòng không chút hứng thú. Sài Gòn thành
phố nóng bức bụi bặm không xứng đáng gợi nên một chỗ xuất quân. Xe lính
đi vào trận đánh ngang qua đường phố, đám đông hững hờ xa lạ, chẳng ai
lưu ý đến đoàn người gươm đao. Những cau mày bực dọc... Xe nhà binh bụi
quá! Mới Mậu Thân đây, máu của chúng tôi đã đổ ra cho Thủ đô bạc bẽo
này. Về phần tôi vì một chuyện lầm lẫn, phải đổi về đơn vị mới không
thích hợp, tôi muốn trở về tiểu đoàn 7 Nhẩy dù, đơn vị đầu tiên, nhưng
bây giờ phải ở với tiểu đoàn 2, lòng thật khó chịu. Không phải tôi chê
gì tiểu đoàn này, đây là tiểu đoàn đánh giặc hách nhất của sư đoàn Dù,
đánh ác liệt như tiểu đoàn 5 trong năm 1965, nhưng vì ở đây tôi không có
bạn thân, yếu đuối là điểm nầy, luôn luôn phải có người thân sống cùng
bên cạnh tôi mới linh hoạt được. Hơn nữa tiểu đoàn này đóng ởSài Gòn,
thành phố tôi ghê sợ đến đến xương cốt. Xe chạy trên đường lồi lõm đá,
hai bên hàng dừa xanh, đến xã Thạnh Lộc vòng xuống để vào An Phú Đông.
Bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng quân bên cạnh đường liên tỉnh lên Lái Thiêu,
các đại đội chia nhau rải đều khu vực. Tuần lễ đầu qua, các đại đội tuần
tiễu lục soát, sáng đi chiều về chỗ đóng quân, tối lập hội, hội nhậu
rượu. Từ bao lâu nay tôi đã luyện được biệt tài về tổ chức ăn nhậu, dù
thiếu thốn cực khổ đến thế nào, rảnh rỗi tôi vẫn tổ chức được những cuộc
ăn nhậu nổi đình đám bằng tất cả khôn khéo và thông minh - Nghề của
chàng!!! Trong đời về mục ăn uống, tôi nghĩ chỉ thua mỗi mình ông Tản
Đà, vì ngay những ngày tang thương rách rưới ở Bồng Sơn, bữa tiệc cũng
có đủ tiết canh vịt, vịt trời hầm đu đủ, cá chép hấp. Quảng Điền, với
những màn heo sữa quay, sườn chó nướng được thực thi đến mức tối đa cùng
chục lít rượu nếp cẩm. Trong thống khoái hơi men với sự nhốn nháo một
đám bạn bè, người cởi trần ngồi dưới một hàng mướp xanh, tôi thỏa thuê
như con cá trong giòng nước. Những lần say rượu dưới chân núi Ngũ Tây,
hòn núi đằng trước ngọn Ngự Bình Huế, gió thổi tiếng thông reo... Cơn
say của mùa đông ở quận Phong Điền, trèo lên mái nhà cởi áo đứng hát
trong đêm, hát thật to nhưng nghe buồn buồn những câu... Đại bác ru
đêm... Trong khi Hiến "Chó xù" ngồi gảy đàn buồn chảy ra nước, gió miền
Trung cuối năm lạnh giá và đại bác từ quận bắn đi xa... A! Những cơn say
tuyệt đỉnh trên dòng sông Hương, đêm trung thu mờ mịt mưa giăng, ánh
đèn dưới cầu Gia Hội chênh vênh vàng vọt, nằm trong khoang thuyền bồng
bềnh tưởng người như tan biến vào cơn mưa. Này cơn say thần tiên ở
Darkto, đêm mù mù sương muối, căn phòng đầy những tiếng hát buồn phiền
khê nặc vang lên như một tiếng kêu thê thảm. Những ngày ở An Phú Đông
này tôi lập lại những cơn say. "Đời là cơn say dài" — Từ khi tôi phán ra
câu này, chúng "anh hùng" lấy làm một sự cảm phục. An Phú Đông, chiều
trong hàng dừa, hàng chục chai bia ướp lạnh được uống vào với tận cùng
thoả thuê, cá lóc nướng, tôm luộc, những cọng ngò gai thơm phức, những
lá mùi xanh mát. Tôi đẩy mạnh cơn say lên tột đỉnh thênh thang.
Những ngày bình yên đã hết. Tiểu đoàn nhận thêm khu
vực trách nhiệm ở phía tây và bắc xã Thạnh Lộc, dọc theo rạch Bến Cát.
Việt cộng một phần của chủ lực đã tấn công vào Sài Gòn trong dịp Mậu
Thân cùng với lực lượng mới được tăng cường (xâm nhập từ vùng An Điền,
Lái Thiêu tới) đang ẩn trốn ở vùng này, lực lượng này phải cố bám vùng
ven đô để sau này dẫn đường cho những đơn vị khác tấn công vào dịp công
kích đợt hai. Tiểu đoàn bắt đầu đụng địch. Sáng đi vào phía tây, cách
con rạch khoảng năm trăm thước chạm ngay, súng nổ, lực lượng địch không
đông nhưng vì không thể rút đi họ phải đóng chốt, trụ lại. Sau lưng là
rạch Bến Cát, rạch Sơ Rô bên trái, dọc phải, một chiếc rạch lớn khác,
Việt cộng như con thú bị kìm chân, phải đào hầm thật sâu, phòng thủ kiên
cố và cố gắng tránh né chúng tôi tối đa. Nhưng các đại đội chúng tôi đã
đến quá gần... Năm thước, bảy thước, họ bắt buộc phải nổ súng. Lính
đứng lên xung phong, không được, sình ngập đến háng không thể rút chân
để bước thêm một bước, người bị thương nằm cách gang tấc không thể rút
về. Ta với địch cách nhau chiếc mương ba thước! Lùi ra xa dội bom. Bom
đánh không trúng. Vào lại, anh Khiêm chết. Khiêm, người sĩ quan khóa 17,
gã đàn anh tôi chịu nhất trong đám huynh trưởng, thông minh, phóng
khoáng và khôi hài hóa tất cả mọi chuyện. Điểm này hợp với tôi quá,
tưởng tượng một cảnh tranh luận nào đó, chỉ cần Khiêm với tôi cũng dư
sức quạt ngã bất cứ một loại mồm loa mép giải nào.
Nhưng anh Khiêm đã chết, chết như thể một câu khôi
hài của thường ngày, chết như một cơn đùa trong buổi nhậu. Tôi nghe qua
máy truyền tin tiếng của Khiêm:
- Trình đích thân (Tiểu đoàn trưởng), tụi nó bắn
tùm lum chưa lên được, đích thân để tôi "nhẩn nha" thì tôi mới tóm
được... Súng tụi nó bằng sắt cơ mà!
Thế rồi im bặt, người hiệu thính viên run run báo cáo:
- Đại đội trưởng tôi bị... thương... Chết rồi!
Tôi đem xác Khiêm về sau, mắt anh đã nhắm... Những
chiếc râu xanh lởm chởm ở cằm người chết linh động như của đời sống đang
còn thở. Nhưng anh chết thật. Rút quân ra ngày mai vào lại.
Quân vượt qua chiếc rạch nhỏ, dàn hàng ngang lội
thật nhanh, hết chiếc rạch đến bên kia là vườn cau, gắng lên! Ba người
lính lên bờ trước đứng dậy. Một loạt đạn nỗ dòn... Hai bị thương. Tôi
đang ở trong rạch lúng túng băn khoăn, cả đại đội nằm trong nước bùn im
lặng, một cây nhỏ lung linh, người lính đeo máy nằm bên cạnh tôi trở
mình, loạt đạn bay đến, những nhánh dừa nước rơi tung tóe. Bực mình quá
tôi nổi liều, cầm trái M.72 đứng lên... Chiếc hoả tiễn công phá được
phóng đi, một tràng đạn đáp lễ lại xé rách chiếc quần... Đ.m... Hầm tụi
nó phá không nổi! Hỏi ý kiến Đại uý Liên, tiểu đoàn phó. Cho rút lui
vòng tay phải đánh lên? Đồng ý. Tôi cho đại đội lui từng người một. Lẩm
bẩm chửi thề.. Mẹ cha chúng mày còn một tí người cũng đòi dở chuyện.
Vòng phía phải thật nhanh qua khu vườn mía, bao quanh đánh vào, Việt
cộng bỏ chạy để lại ba xác chết nằm thẳng cẳng.
Đúng như tôi ước đoán, Việt cộng ở đây chỉ còn
khoảng một đại đội, nhưng một đại đội rải rác khắp một vùng rộng lớn
được phân tán thành những tổ nhỏ, có nhiệm vụ phải bám thật chặt các bờ
kinh, bờ rạch.Họ có đủ súng trang bị cho cả tiểu đoàn, cối 82 ly, 60 ly,
đại liên 12 ly 7 vũ khí của lực lượng lớn nhưng quân số chỉ còn lại
khoảng một đại đội, phân tán chui rúc vào những chiếc hầm kín đáo ngập
đầy nước, trên có nắp, ngụy trang thật kỹ, ba lỗ nhỏ nhìn ra ba phía,
lối vào hầm phủ đầy lá cây, thân dừa nước. Việt cộng chỉ còn có thế,
nhưng họ không được lùi, không được thoát, phải bám thân chặt chiếc rạch
để chết, cái chết chắc chắn sẽ xẩy đến theo thời gian! Tại sao? Có gì
đâu... Họ kiệt lực, trăm phần trăm kiệt lực. Trung đoàn 101 đánh vào
tiểu đoàn 5 Nhảy dù ở Tân Thới Hiệp, Hóc Môn suốt ba ngày không nuốt
trôi được tiểu đoàn này, nhả ra và chạy về đây. Thành phần tấn công Gò
Vấp, Xóm Mới hôm Tết, thất trận cũng chạy về đây... Tan nát, thiếu thốn,
suy sụp nhưng họ biết rút về đâu nữa? Đường giao liên phải vượt sông
Sài Gòn, một mục tiêu lộ liễu dưới phi cơ và tàu hải quân quan sát tuần
tiễu thường trực. Cán bộ nằm vùng, dân chúng có cảm tình đã bị lùa ra
khỏi vùng. Họ bơ vơ, lang thang, lếch thếch như một đám ma đói khát
tuyệt vọng. Nhưng lệnh trên đã bắt buộc:phải bám sát địch, bảo toàn lực
lượng để chuẩn bị tổng công kích đợt II! Tham vọng và nhu cầu chính trị
đã quên mất con người trong hoàn cảnh nghiệt ngã. Súng cối, đại liên
được moi lên từ vườn dừa, đám ruộng, tiểu đoàn phó, y sĩ trưởng, đại đội
trưởng súng nặng bị bắt, hồi chánh hay bị tử thương. Việt cộng bị chúng
tôi ép vào một thế đường cùng.
Nhưng tháng Năm, Việt cộng cũng mở tổng công kích
đợt hai, và kết quả như đã xẩy ra. Các anh bên kia, tôi muốn nói thật
với hết cả chân tình trong lòng: Các anh đã hết sức. Sức mạnh huyền hoặc
củaa Điện Biên thuở xưa không còn giá trị lúc này nữa. Các anh ôm mộng
giải phóng, nhưng giải phóng cho ai? Các anh lao đầu vào cái chết với
mục đích gì? Để chiến thắng? Ôi cái aỏ tưởng đó, giờ này các anh vẫn coi
là sự thật sao? Các anh lấy gì để chiến thắng? Vũ khí, nhân mạng bị
thiệt hại đến độ vô chừng. Nhưng các anh vẫn chiến đấu, điều đó đã xảy
ra và đang xảy ra thật đau xót. Vì những người chỉ huy củaa các anh,
những Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh vẫn nghĩ rằng các anh đang thắng,
những người đó muốn chứng tỏ mình là một thứ ngoại hạng, tay kiệt liệt,
tinh hoa của dân tộc, kết tụ của thông minh và thiên bẩm, loại "thiên
tài chỉ huy" của cả dòng dân tộc un đúc. Ôi chính vì những người chỉ huy
"thần thánh" đó tin rằng có chiến thắng và các anh đã phải chiến đấu.
Các anh còn phải chiến đấu để cho đám phù thủy chính trị đặt những lá
bài tháu cáy lên canh bạc hòa đàm - Những món tiền giấy trả bằng xương
và máu của các anh. Lá bài tráo trở bảo chứng bởi quả tim hồng mơ ngày
dân tộc được giải phóng. Các anh giải phóng hay làm điêu linh tổ quốc và
hủy hoại cuộc sống? Các anh thật đáng tội nghiệp.
Sau này tôi còn chứng kiến thêm nhiều lần các anh
"thừa thắng xông lên", những cao điểm, những chiến dịch Đông - Xuân, Hè -
Thu mà thực ra chỉ là một loại lịch trình đã soạn thảo do một thứ chỉ
huy u tối mê muội ảo tưởng của quá khứ và sách lược chính trị bỏ quên
con người. Làm sao để có thể gọi là cuộc tấn công lớn của một cao điểm
khi một đại đội của các anh chỉ còn trên dưới bốn chục người, mặc dù đủ
vũ khí, bốn mươi người của các anh phải bố trí trên một trận tuyến dài
hơn cây số, ba người một chiếc hầm, chui rúc ẩn trốn, gạo rang nước lã,
bị thương cắn răng xuống chịu đựng, tự buộc vết thương bằng miếng vải
rách và dòng máu tươi chảy ra, mặt xanh tái nhợt, nhạt sức sống từ từ
tắt lịm khi bàn tay mở dần, mở dần phơi dưới ánh mặt trời những đường
chỉ tay bất hạnh.
Các anh chiến thắng ở đâu? Khi xác chết của các anh
nằm lêu bêu vất vửơng suốt một vùng từ An Phú Đông lên đến Thạnh Lộc
qua Tân Thới Hiệp, những xác chết trần truồng, co quắp, tênh hênh,
chương sình thối tha đầy dòi bọ bên gốc dừa, sau liếp cửa, trong đụn
rơm... Các anh chết ở đâu nhiều quá, lũ chó hoang tha hồ thỏa thuê với
những phần đùi còn tím máu, chiếc đầu bị cấu xé dành giựt, từng tảng tóc
xanh kéo lê lết trên khắp một vùng. Các anh đã chết trên một địa danh
thật mỉa mai: An Phú Đông... An phú Đông nơi rừng dừa xanh vang tiếng
súng... An Phú Đông nơi sử Việt viết trên máu hồng. Địa danh này các anh
đã một lần thần thánh hóa, địa danh các anh đã xếp vào huyền thoại như
sông Lô, Điện Biên. Các anh ở bên kia ơi, dòng đời đã thay đổi, những
chiến thắng người Pháp thuở xưa đâu phải là yếu tố làm nên thắng lợi hôm
nay. Bây giờ các anh đối diện với chúng tôi, một lũ "ngụy" nô lệ đánh
giặc mướn, tay sai ngoại bang... A! Nhưng các anh có tự do nào? Đầu óc
đầy thù hận cuồng tín được dẫn dắt vào một mục tiêu không tưởng, vô
vọng. Mục tiêu được thiết kế, hoạch định từ trí não những lãnh tụ bị bao
cứng bởi hào quang quá khứ, những người có lòng tin tưởng què quặt
rằng, chính mình, một loại siêu nhân mà lịch sử dân tộc cần đến... Chúng
tôi chiến đấu trong bi đát nhưng vẫn còn tự do nơi trái tim, trong khi
các anh chỉ là một lũ người máy mê muội sâu vực đen của ảo tưởng. Tệ hơn
nữa - Một lũ người máy bất lực.
Tháng 3/1968. An Phú Đông - Gia Định.
No comments:
Post a Comment