Hôm
nay, gần hết tháng thứ năm hòa bình của chiến tranh “Đông Dương đệ
nhị”. Người Mỹ đã rút đi cùng bộ máy chiến tranh khổng lồ, khối nhân lực
nửa triệu người, hàng trăm máy bay chiến đấu, những phi đoàn trực
thăng, hệ thống phi trường dã chiến lần lượt đóng cửa. Người Mỹ phủi tay
gọn ghẽ: 1960-73, mười ba năm tham dự vào vũng lầy Đông Dương, nước Mỹ
quả tình cần phải nghỉ ngơi. Vụ Watergate như một cơn sốt cao độ để
người Mỹ trút được khối chất độc tự thân lần cuối. Ngoài giải tỏa chiến
tranh, trong dọn sạch nội bộ, người Mỹ uống một liều thuốc nặng “độ” để
dứt điểm cơn bịnh. Vệ tinh Skylab hư bộ phận chống nhiệt nhưng được sửa
chữa kịp, phòng thí nghiệm không gian đáp tuyệt hảo xuống biển Thái Bình
sau hai mươi tám ngày bên ngoài khí quyển quả đất.
Bà Golda Meir đón thủ tướng Tây Đức ở phi trường
Tel-Aviv với câu nói lịch sử: “Nhân loại sẽ không còn nếu không có can
đảm mở màn cho những bắt đầu mới...”
Ở Ba Lê, Kissinger mạnh miệng tuyên bố: “Sẽ không
trở lại nơi này một lần nào nữa vì lý do Đông Dương..” Xong, tiếng bạc
chót đã đặt xuống. Thế giới thở hơi dài trước một viễn ảnh đẹp đẽ đang
ráp nối dần.
Nhưng Nam Việt Nam thì quả tình chưa xong một
chuyện nhỏ. Ngày 27.1.73 khi dấu chấm cuối cùng vừa dứt trên văn kiện
“Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam”, thì ở Việt Nam, đêm 27 rạng 28-1-73
Thủy quân lục chiến cường tập dứt điểm mục tiêu Tango hay Cửa Việt. Pháo
130 của Bắc quân từ Đông Hà, Khe Sanh đổ xuống vùng Như Lệ, Tân Lê làm
quân Dù không thể ngóc nổi đầu... Ngày Chủ nhật 28-1-73 toàn thể các lộ
đi vào Sài Gòn đều bị đóng “chốt”. Chốt ở quốc lộ 15 phía nam Long
Thành, chốt trên quốc lộ 1 ở Xuân Lộc, Long Khánh, chốt kẹp đường Tây
Ninh, chốt giữ đường đi Đà Lạt. Người Việt Nam đón hòa bình với tiếng
chắt lưỡi khi mở tờ báo, lúc chui xuống hầm, bế con chạy trốn pháo. Hiệp
Định Ngưng Bắn và Tái lập Hòa Vình tại Việt Nam: Thật sự đùa cợt tàn
nhẫn trên bi thương của dân tộc Việt. Hòa Bình, chiếc bóng ao ước của cả
một giống nòi chập chờn ảo tượng. Hôm nay, cuối tháng thứ năm của ngày
ngưng bắn, tất cả dạng thức hòa bình vẫn còn rời rạc, trừ hiện tượng
người Mỹ đã mất hẳn, để khi đi trên đường trong Tân Sơn Nhất, trong Long
Bình, Cam Ranh với canh cánh phản ứng... Hóa ra “Hòa bình” đã đi được
một bước cụ thể. Bước trở về của đám lính Mỹ bên kia đại dương Thái
Bình. Và cũng chỉ có mỗi hiện tượng đó, tất cả còn nguyên vẹn. Hòa Bình
Việt Nam Người ở đâu?
Có một cảm giác không an toàn, âu lo phảng phất
trong không khí. Cắt đất thành lập một quốc gia thứ ba, ngưng bắn thật
sự lại chỗ chờ đợi Hội Đồng Hòa Giải và cơ chế chính trị mới. Hay...
Đánh trở lại?!! Những câu hỏi nhức nhối theo từng nhịp thở khi nghe
tiếng đại bác rì rầm vang vọng trong đêm.
Chuyện gì sẽ xẩy đến? Và câu hỏi hệ luận: Mặt Trận
Giải Phóng hiện đang toan tính gì? Lẽ tất nhiên, phần cuối cùng của
chiến lược Cộng Sản không thể đơn giản khẳng định với một minh xác cụ
thể, nhưng nét chính chiến thuật phải nằm trong toàn bộ chiến lược lớn
của Đảng Lao Động Việt Nam mà mục tiêu lớn từ lâu không thay đổi: Nhuộm
đỏ toàn thể Đông Dương.
Nhưng dẫu nắm được điểm chính chiến lược của miền
Bắc, cũng không thể dễ dàng tìm ngay được giải đáp cho câu hỏi. Đoạn
đường dài đó, đảng Lao Động từ lâu đang tâm thực hiện, nhưng nhịp độ,
phương thức thực hiện của bước tiến luôn vấp phải muôn ngàn trở ngại do
đối kháng của phía Quốc gia, tình hình quốc tế, nên di chúc Hồ Chủ Tịch
được mặc nhiên uyển chuyển thi hành theo các đường vòng nới rộng hay ép
chặt tùy hoàn cảnh. Nhưng cái đích của mọi từ trường hành động vẫn không
ra khỏi hai cực nam châm, cụ thể là quyết tâm của người đã chết. Từ
quan điểm chiến lược này của đối phương, chúng ta cần thiết tìm nên
đường đi trong ý nghĩa tự tồn và tự cứu. Viên đạn của địch đã lên nòng,
ta phải xét thêm vị trí của nòng súng, thế quì nhắm của địch để từ đó
tìm ra đường lối chống đỡ. Lần chống đỡ cuối cùng để vượt qua cái chết
hoặc chìm mất... Lặp lại câu hỏi: Mặt Trận Giải Phóng toan tính những gì
có thể thay thế bằng một câu hỏi tương tự: Cộng Sản đã mưu tính gì khi
lấn chiếm những vùng đất có chung nhiều mẫu số.
Qua những vùng đất bị tạm chiếm, chúng ta có nhiều yếu tố để nhận diện đối phương.
29-3-72, mở đầu cuộc tấn công mùa hè vào miền Nam,
Cộng Sản Bắc Việt xua 13 sư đoàn bộ binh cùng ba trung đoàn chiến xa
theo hai hướng tây-đông và bắc-nam, cường tập vào tỉnh Quảng Trị với mục
tiêu thứ nhất là thị xã Đông Hà, sau khi giàn đại pháo 130 ly của ba
trung đoàn pháo nặng yểm trợ tiếp cận, quét sạch dãy căn cứ hỏa lực chạy
từ làng Vei, Hương Hóa, như Caroll, Sarge, C1, C2, A1, A2, từ biên giới
Lào Việt đến bờ biển. Mặt trận Đông Hà vỡ vì Sư đoàn 3 Bộ Binh và một
Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến không thể nào giữ được một tuyến phòng thủ
rộng đến ba mươi cây số không chiều sâu.
Ngày 1-5-72 Quảng Trị mất, người dân dùng tất cả
mọi phương tiện để xuôi Nam. Thật lạ, người Việt vốn rất tỉnh, rất
thường với biến cố, nhưng khi một làng xóm, một quận lỵ vừa ngửi mùi “bộ
đội” gần đến, đã vội vàng di tản. Lữ đoàn 147 Thủy quân Lục chiến giữ
nhiệm vụ bao chót, vét hết người dân Quảng Trị cuối cùng và dừng lại tại
Mỹ Chánh để lập phòng tuyến cuối. Điểm giữa đường Quảng Trị - Huế.
Ngày 29-6-72, hai sư đoàn chủ lực của miền Nam,
Nhảy Dù phía tay trái, Thủy Quân Lục Chiến tay phải, cùng song song tiến
về hướng Bắc lấy quốc lộ 1 làm chuẩn và thành phố Quảng Trị làm mục
tiêu cuối cùng.
Bắt đầu từ ngày 29-6-72 và chấm dứt vào cuối tháng
7-72, Quảng Trị “nóng” mùi lính Cộng hòa, chỉ trừ một chốt cuối: Cổ
thành Đinh Công Tráng, ba tiểu đoàn Thủy quân lục chiến hoàn tất nhiệm
vụ đúng 12 giờ trưa ngày 15-9-72. Mặt trận Quảng Trị được phân ranh rõ
rệt bởi giòng sông Thạch Hãn.
Tháng ngày qua từ từ, cuộc chiến tạm kết thúc với không người thắng cũng không kẻ bại.
Kết quả, Hiệp Định ngưng bắn tái lập hòa bình ra
đời, tờ Hiệp Định quái dị, mờ mịt và láu cá như một bài thơ tự do mà mọi
phe đều có thể giải thích với phần lợi cho mình. Hòa Bình: từ ngữ linh
thiêng lần đầu tiên đuợc gọi tới.
Ta kiểm điểm đất đai Cộng sản đã chiếm được ở mặt
trận phía bắc: Từ đèo Lao Bảo ra đến Cửa Việt, từ sông Bến Hải vào đến
sông Thạch Hãn và đặt lại câu hỏi mà suốt những ngày đầu cuộc đại chiến
của năm 1972 đã nhiều lần được nói tới: Cộng sản muốn chiếm Huế hay
không? Câu trả lời có thể đặt lên hai vế mà không sợ lầm lẫn. Về mặt
chiến thuật, Huế cũng là một mục tiêu nhưng chỉ là một mục tiêu chiến
thuật, của Sư đoàn 324B. Bằng tất cả cố gắng, SĐ324B nầy đã cài răng
lược với Sư đoàn 1 Bộ Binh VNCH trong dự tính đẩy sư đoàn này ra khỏi
các cao độ King, Birmingham, Bastogne, Checkmate ở vùng tây-nam Huế, để
từ đây theo trục lộ 547 tiến về Huế (Đường đã một lần được xử dụng trong
cuộc tấn công Tết Mậu Thân). Nhưng Huế chỉ là một mục tiêu chiến thuật
lớn chứ không phải là một thành phố mà quan điểm chiến lược Bắc Việt
quan niệm đến.
Sự xác định quân sự căn cứ từ các yếu tố, sau khi
chiếm được Đông Hà và Quảng Trị, Cộng quân bỗng “khựng” lại ở bờ bắc
sông Mỹ Chánh. Sự trì chậm của cuộc tiến quân có lý do là phương tiện
tiếp vận không đi theo kịp với bước tiến của bộ binh. Nói rõ hơn, Cộng
quân không “chuẩn bị” để đẩy quân sâu về phía nam hơn được, trong khi
chuẩn bị là ưu điểm số một mà họ đã nhiều lần thực hiện đủ trong toàn
thể các chiến dịch... Mậu Thân, Hạ Lào, cuộc tổng tiến công đầu tháng
4-1972 vào Đông Hà, Lộc Ninh, Darkto là những bằng chứng hiển nhiên về
cách chuẩn bị kỹ của đối phương. Thế nên Sư đoàn 324B cùng các trung
đoàn thuộc quân khu Trị-Thiên của Cộng sản dù có thay phiên nhau nhồi Sư
đoàn 1 Bộ Binh ở vùng núi tây-nam Huế, thành phố này vẫn chưa được quan
niệm đúng cỡ như điểm dứt của chiến tranh Việt Nam.
Xác định kéo đến một hệ luận: Mục tiêu lớn của cuộc
tổng tấn công không vượt khỏi ranh sông Thạch Hãn, đường ranh giới này
có thể tính được từ một khối óc điện tử khi có đủ các dữ kiện vừa trình
bày. Khoảng đất 150 cây số vuông ở bắc sông Thạch Hãn là một vùng không
có tiềm lực kinh tế và 90% dân chúng đã vượt sông bỏ làng mạc xuôi Nam.
Không tài nguyên, không nhân lực, khoảng đất trống với thiên nhiên nghèo
nàn đó trên ý niệm của chiến tranh cổ điển, chiến tranh chiếm đất, bắt
dân, cướp tài nguyên không thể là mục tiêu đúng kích thước được. Nhưng
lật tờ bản đồ Đông Dương chỉ với một nhận xét đơn sơ nhất của quan điểm
chính trị địa lý, thì thấy vùng đất nằm hai bên quốc lộ 9, từ Đông Hà
đến Tchépone quả thật là một trung điểm để kiểm soát được cạnh sườn tây
và đông của dãy Trường Sơn nằm trên ba quốc gia Việt, Miên, Lào. So sánh
quốc lộ 9 nằm trên trục Đông Hà - Tchépone - Savanakhet với trục quốc
lộ 12 Thakhet - Đèo Mụ Già; trục lộ 19 Stungteng - Đức Cơ - Pleiku thì
nhận thấy ngay được tính chất quan trọng của con lộ kể trên, con đường
tương đối ngắn (dài hơn trục bắc và ngắn hơn trục nam) nằm giữa trung
tâm của Đông Dương hợp với đường Hồ Chí Minh thành ra một ngã tư nối
liền được đông-tây, nam-bắc của bán đảo. Nhận định này cũng chẳng gì mới
lạ, Cộng quân chỉ lập lại hoài bão mà tổ tiên ta xưa không thực hiện
được: Kiểm soát đường số 9, chế ngự Nam Lào để tiến lên bắc, xuống nam
bình định luôn toàn thể bán đảo. Nhận định có thể kiểm chứng khi ta nhìn
lại diễn tiến và kết quả của hai mặt trận khác, Darkto và An Lộc.
Từ Attopeu trên đất Lào, đường Hồ Chí Minh có một
hệ thống rẽ về phía đông. Gọi là một hệ thống vì gồm những con đường
phẳng phiu trơn láng chạy quanh co trên các cao độ chập chùng, không che
dấu dưới cánh phi cơ quan sát hay bằng mắt trần từ các trại Ben Hét,
căn cứ 5 hay từ các căn cứ hỏa lực dọc sông Pôkơ của Nhảy Dù.
Mặt trận Tam Biên bao lâu nay vẫn giữ nguyên cường
độ cới các trận đánh quanh các căn cứ 5, 6, cứ điểm Darksong; Sư đoàn
Sao Vàng hay Nông Trường 2 (lực lượng chính của quân vùng khu Cộng sản
Kontum, Phú Yên, Bình Định) có nhiệm vụ vừa đánh cầm chừng đồng thời bảo
vệ luôn đường dây “giải phóng” nối từ đường dây Xã Hội Chủ Nghĩa (đường
Hồ Chí Minh) về miền bình nguyên Trung phần. Cao điểm mùa hè 72, Cộng
quân xử dụng Sư đoàn Thép hay Sư đoàn Điện Biên (320) tấn công cường tập
các mục tiêu Delta, Charlie, Võ Định của Nhảy Dù, dãy cứ điểm bị vỡ
tung dần... Hậu quả tất nhiên là Darkto bị tràn ngập. Nhưng không như ở
Quảng Trị, Kontum vẫn không bị tấn công dứt điểm, Bộ chỉ huy Mặt trận B3
(Tây Nguyên) xử dụng thế liên hoàn, luân phiên cho các trung đoàn trực
thuộc của Sư đoàn 320 và Sư đoàn F10 thay phiên nhau tấn công vào Kontum
hai đợt trong tháng 5-1972, nhưng đơn vị Cộng sản vào được thành phố
chỉ là các thành phần đặc công, không có đại pháo, chỉ một ít chiến xa
yểm trợ.
Mặt trận Kontum không vỡ, chỉ bị khựng lại trong
một giai đoạn ngắn. Cộng quân bị chận lại ở phía nam Võ Định, một điểm
bất ngờ không có được biên giới thiên nhiên để gọi tên. Thành phố cực
bắc của vùng cao nguyên tưởng rằng đã có lúc rơi vào vòng tay địch, rốt
cuộc trở nên thành phố yên tĩnh đầu tiên ngay từ đầu tháng 6-1972, khi
ông Thiệu đáp trực thăng xuống để gắn sao cấp tướng cho Đại Tá Bá, Tư
lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh.
Kontum vẫn chưa bị pháo 130 ly, mẫu số trùng hợp với Quảng Trị ở điểm: Tại sao Cộng quân không đưa pháo xuống sâu hơn nữa?
Tại mặt trận An Lộc, quả tình Cộng sản đã rơi vào
sai lầm chiến thuật khi không phối hợp được chiến xa và quân bộ chiến ở
những lần cường tập hồi đầu tháng 4-1972, lúc mà Tướng Hưng chưa bố trí
kịp các đơn vị của Sư đoàn 5BB và các lực lượng tăng phái chưa vào trận.
Địch mất đi một dịp may lớn để lấy được An Lộc trong lúc đủ thế thượng
phong. Mặt trận An Lộc sở dĩ đã có kết quả như đã xảy ra cũng do yếu tố
chính: Địch ngã về phương thức bao vây An Lộc, lập chốt dọc quốc lộ 13
để tiêu diệt lực lượng tăng viện chứ không thực hiện phương thức bao vây
cường tập, chiếm giữ An Lộc để rồi tiếp tục uy hiếp Lai Khê, Bình Dương
hợp cùng các cánh quân của những mặt trận phụ như Sư đoàn C30B đang ở
vùng Gò Dầu Hạ, Trãng Bàng (Hậu Nghĩa), Công Trường 5 đang ở Dầu Tiếng,
Trị Tâm, Bình Dương, (CT5 sau khi dứt điểm Lộc Ninh ngày 5-4-1972 chia
hai lực lượng đánh vào Phước Bình và Dầu Tiếng) cùng tiến chiếm thủ đô
Sài Gòn. Giải thích như vừa kể để chúng ta nhìn rõ lại mục tiêu của Cộng
sản, vẫn là các phần đất nằm hai bên quốc lộ 13 và gần biên giới. Nơi
thích hợp nhất để họ đặt bộ chỉ huy tiến thẳng về Sài Gòn, sang trái là
các tỉnh cao nguyên và nam Trung phần, phía phải là vùng đồng bằng sông
Cửu Long, đồng thời nếu Cộng sản muốn đặt một cái gọi là thủ đô cho
chính phủ lâm thời trong vùng này, người ta mới có thể hiểu được lý do
chọn lựa kể trên.
Nhìn lại ba vùng chiến trận của thời gian qua, căn
cứ vào những sự kiện chính trị của địch, diễn tiến, kết quả và hậu quả
của hội nghị Ba Lê, ta có thể đúc kết nhận định tổng quát với hai điểm
nổi bật:
Thứ nhất, cuộc tổng tấn công mùa hè 72 vào ba vùng
của Việt Nam Cộng Hòa với mục tiêu là những thị trấn, những vùng đất
biên giới, không thuần túy chỉ là những cuộc tấn công quân sự nhằm biểu
dương sức mạnh của chế độ và các mục tiêu sở dĩ được chọn lựa chỉ vì
thuận lợi cho việc tiếp vận, tiếp trợ và điều động chiến thuật. Trận đại
chiến được thực hiện không với ý niệm giản dị như thế, nó có mục đích
to lớn, tổng quát hơn mà chúng ta có thể tìm thấy được do căn cứ trên
những sự kiện khác - Đấy là khi ba mặt trận lớn bùng nổ, các mặt trận
phụ ở những vùng đông dân cư, vùng bản lề mở cửa vào thủ đô, những vùng
tiếp giáp với bờ biển như Hoài Ân, Bồng Sơn, Bà Rịa, Long An, Chương
Thiện, Tây Ninh, Bình Dương, Long Khánh đều bùng nổ với cường độ dồn
dập. Những trận đánh này không thể quan niệm như là những cuộc hành quân
thuần túy quân sự với âm mưu hỗ trợ cho ba điểm chính.
Thật quá giản dị khi cho rằng quận Đất Đỏ (Phước
Tuy), quận Hoài Ân, căn cứ Đệ Đức (Bình Định) là những mục tiêu chính
của cuộc tổng tiến công. Lẽ tất nhiên, chúng chỉ là mục tiêu lớn cho một
tiểu đoàn, vài đại đội; nhưng cuộc đại tấn công có tính chất chiến lược
quan trọng hơn; Bắc Việt muốn gây lại cho Mặt Trận Giải Phóng hệ thống
hạ tầng cơ sở ở khắp miền Nam, đặc biệt nhắm vào những vùng đông dân,
bản lề, để chuẩn bị lực lượng quần chúng đấu tranh cho những ngày của...
Hòa Bình - Những ngày sau 27-1-1973. Một hướng khác, thuần túy quân sự
và rõ ràng hơn, là trong trường hợp lực lượng quân sự Cộng sản dứt điểm
được các mục tiêu Quảng Trị, Kontum, Pleiku, Lộc Ninh, họ sẽ triển khai
thành một tuyến biên giới xong đánh úp toàn bộ miền Nam, từ Quảng Trị
đánh sâu xuống Huế chiếm đèo Hải Vân, cánh quân từ Kontum tràn xuống
đồng bằng lập vòng đai dọc quốc lộ 19 chia đôi miền Nam bởi trục Kontum -
Bình Định, và cánh quân An Lộc sẽ dứt điểm Sài Gòn. Trong chiều hướng
này Cộng sản sẽ phá bỏ Hội Nghị Paris, thành lập chính quyền đỏ, thống
nhất đất nước, tràn qua phía tây bắt tay với các cơ sở nằm vùng phía
đông sông Cửu Long ở đất Miên vẽ lại bản đồ Việt Nam!! Ý hướng này (lẽ
tất nhiên) đã không thực hiện được...(1)
Cuối thu 72, cuộc đại chiến lắng xuống, một vài
vùng đất của Việt Nam Cộng Hòa bị Cộng quân tạm chiếm được giải tỏa, các
thị trấn lớn dần dần dứt pháo. Thế nhưng, những đường giây giao liên
quan trọng (Đã bị đứt khúc, vỡ tan sau các cuộc hành quân lớn như
Johnson City hồi năm 67, sau Mậu Thân và bị vô hiệu hóa trong giai đoạn
69, 70...) dần dần được nối lại. Từ đường mòn Hồ Chí Minh khoảng ở
Attopeu, các cán binh Cộng sản có thể yên lành theo đường 36 vào Ben
Hét, đến Darkto để từ đây theo đường 14 lên hướng bắc tiến vào thượng
lưu sông Thu Bồn, ngỏ chính đường về đồng bằng Quảng Nam hoặc từ Darkto
theo hướng đông vượt sông Dark-Psi cặp theo đường liên tỉnh số 5 vào
thung lũng Gia Vực, từ đây ra Quảng Ngãi hay vào Bình Định chỉ còn là kỹ
thuật di chuyển.
Cuộc đại tấn công cũng đã nối lại được những đường
dây ở bên kia biên giới Kampuchia để về Việt Nam. Các mật khu Ba Thu, Lý
Văn Mạnh, Rừng Chàm, Bà Vụ, cuối cùng là những nơi “ém quân” sát nách
thủ đô Sài Gòn và cách trung tâm Sài Gòn với cự ly súng cối 82 ly. Những
đường dây nối lại, những vùng “xôi đậu” dày hơn, tốc độ đắp mô, gài mìn
tăng trưởng, ấp Mỹ Nhơn, Mỹ Yên cạnh quốc lộ 4 nằm giữa ranh hai quận
Bình Chánh (Gia Định), Bến Lức (Long An) biến thành hai ấp hạng C, ban
ngày cán bộ xã Việt Nam Cộng Hòa khó khăn vào thu thuế.
Một tình hình tổng quát tương tự như những ngày của
năm 1960 với lớp cán bộ hạ tầng cộng sản mới có khả năng và tuổi trẻ
hơn, bắt đầu cấy sâu dần nơi nông thôn miền Nam: Những cán bộ chính trị
người Bắc. Thế trận chính trị bắt đầu, những ngày đầu năm 1973 kịp đón
nhận biến cố: Hội nghị Ba Lê hoàn tất bản thỏa hiệp.
Thứ hai, cuộc đại chiến dù trải qua sáu tháng quân
sự dồn dập vì đã có khi người ta nghĩ đến lúc cán bộ đặc công Cộng sản
chờ lệnh giờ G (Giờ khởi đầu của lệnh hành quân) là ra mặt tàn sát, khởi
đầu bạo động trong các thành phố lớn. Cũng có lúc người ta nghĩ rằng Hà
Nội khó đứng vững thêm một ngày một buổi nào nữa, khi 100 pháo đài bay
B52 không kể 300 chiến đấu cơ hộ tống cùng đánh bom liên tục trong 12
giờ, từ bình minh đến hoàng hôn trên vùng trời Hà Nội như trong ngày
5-12-1972. Nhưng tất cả khó khăn căng thẳng đều đi qua, bản Hiệp Định
ngưng bắn vẫn được hoan hỷ ký kết cùng với những điều khoản được dự trù
thực hiện trong khoản thời gian có giới hạn. Các yếu tố cụ thể dần dần
được thống kê và hợp thức hóa để sẳn sàng tham dự trò chơi “Hòa Bình”.
Các chuyến bay thả tù từ Phú Quốc, Biên Hòa; nhận
tù ở Gia Lâm (Hà Nội), Lộc Ninh (Bình Long) được thiết kế và phân công.
Hiệp Định đi bước thực hiện đầu tiên: Trao trả và tiếp nhận tù binh. Các
địa điểm trao trả đã sẵn sang. Kết quả tích cực nhất của chín tháng đại
chiến.
Hai tháng sau ngày hiệp định ký kết, 26.058 tù cộng
sản, 5018 tù Việt Nam Cộng Hòa dần dần được trao trả trên sáu địa điểm
chính, bờ bắc sông Thạch Hãn, Quảng Trị, Đức Phổ (Quảng Ngãi), Hoài Ân
(Bình Định), Lộc Ninh, Minh Thạnh (Bình Long) và Thiện Ngôn (Tây Ninh).
Cuộc trao trả tù binh đã vô tình hợp thức hóa “thực thể”: Mặt Trận Giải
Phóng có được một vùng tạm kiểm soát lốm đốm, xen kẽ lẫn vùng Việt Nam
Cộng Hòa. Điều này làm mạnh thêm nhận định: Cuộc đại chiến chỉ là mặt
nổi, dứt điểm cho hội đàm; thế nên chiến trận dù đã đạt đến cường độ cao
nhất cũng chưa phải là “điểm nổ” để gây nên hệ thống nổ dây chuyền ảnh
hưởng đến toàn thế giới. Hội nghị Ba Lê do đó đã không thể tan vỡ để bản
hiệp định như là cơn hạ sốt phải đến sau cùng.
Nhưng đến khi phải thi hành hiệp định, phía Cộng
sản đã không chấp thuận phương thức ngưng bắn tại chỗ, vạch đường phân
ranh tạm thời, ấn định mỗi vùng trú quân tạm thời cho hai lực lượng tham
chiến, cấp chỉ huy chiến trường gặp gỡ để cam kết, cụ thể hóa vấn đề
ngưng bắn (Điều 2, 3 và 7 của đề nghị VNCH). Phía Cộng sản đã không chấp
nhận danh xưng “vùng trú quân tạm thời”, họ lý luận đó là các vùng kiểm
soát “thực tế” của MTGP, không cần phải xác định ở cấp trung đội, tiểu
đội, nơi nào có cán binh Cộng sản, nơi đó phải được xem như vùng “kiểm
soát” của họ. Cấp chỉ huy chiến trường gặp nhau chưa đủ, phải từng cá
nhân võ trang của cả hai bên mới hội đủ cho điều kiện thảo luận ngưng
bắn.
Những đòi hỏi như trên lẽ tất nhiên không thể chấp
nhận được. Nhưng kinh qua sự kiện cùng các diễn tiến của hội nghị Ba Lê
trong hạ tuần tháng 5, 7-73 và những ngày trước thông cáo chung 13-6-73,
người ta thấy hiển hiện một âm mưu thâm độc của phe bên kia: Cộng sản
muốn hợp thức hóa vùng đất kiểm soát để có đủ yếu tố cụ thể cho một
“nước” với chính phủ, quân đội và đất đai riêng. Âm mưu đã ló dạng toàn
thể vào những ngày đầu tháng 6-73 tại bàn hội nghị Liên Hợp Quân Sự cũng
như ở La Celle Saint Cloud.
Đến đây, có thể có thêm một nhận xét. Chánh quyền
VNCH và cả MTGP đều có chung một ưu tư về thành phần thứ ba trong Hội
Đồng Hòa Giải (Điều 12a của Hiệp Định), một thành phần tuy yếu “lực” hơn
hai thành phần kia nhưng là “hy vọng” của toàn bộ hiệp định.
Sự kết luận về “nước” thứ ba như trên có vẻ khó
thực hiện khi nhìn tình trạng đóng quân hiện tại của lực lượng võ trang
MTGP một tình trạng loang lỗ trải dài trên miền Nam qua các tỉnh Quảng
Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kontum, Bình Định, Pleiku, Tuy Hòa, Bình
Long, Tây Ninh, Chương Thiện, Kiến Phong. v.v... Có nơi Cộng quân chiếm
được một quận hoặc một vùng rộng lớn như phần đất bắc Quảng Trị xuyên
qua các quận Triệu Phong, phần đất bắc Kontum (quận Tân Cảnh), phần đất
bắc Bình Long (quận Lộc Ninh và một phần quận Chơn Thành, An Lộc). Có
nơi cộng sản chỉ chiếm được một ấp nhỏ sát vùng kiểm soát như ở Quảng
Ngãi (ấp Vạn Lý thuộc quận Đức Phổ). Có nơi Cộng sản không chiếm hẳn
được một ấp xã hay thị trấn nào như ở Chương Thiện, Định Tường, nhưng
nhiều vùng trong các tỉnh này có rải rác cán bộ chính trị nằm vùng và
lực lượng địa phương, du kích khi ẩn khi hiện.
Từ nhận định vừa được cấu thành, nhìn vào kết quả
của chiến tranh và diễn tiến của hòa đàm, những buổi họp ù lỳ của ban
LHQS hai bên trong suốt thời gian tháng 4, 5-73, bế tắc toàn diện của
hội nghị song phương tại Ba Lê, cuối cùng là bản thông cáo chung của
Kissinger và Thọ. Chúng ta có thể đi đến những kết luận như trên mà
không sợ sai lầm về ý đồ của đối phương trong suốt quá trình trước và
sau 27 tháng 1-1973.
Tuy nhiên, dù sự kiện đã sáng tỏ nhưng kết luận
toàn diện và khả thể nhất vẫn là điều chưa khẳng định dứt khoát được vì
diễn tiến, mục tiêu đấu tranh quân sự, chính trị của Bộ Chính Trị Đảng
Lao Động Việt Nam vẫn là một điều bí mật, nằm trong những khối óc, trên
bàn giấy của Duẫn, Đồng, Giáp, Thọ. Nghị quyết của ngày 10-2-73 cũng
chưa phải là điều suy tư chính thức của các Ủy Viên Trung Ương Đảng mà
có thể là một trong những nội dung “bề mặt”, đôi khi không phản chiếu gì
đến “điểm chiến lược” mà có thể những ủy viên cũng không đồng nhất hoặc
hoàn toàn khẳng định.
Thế nên, những kết luận sau, có thể xem như một lối nhìn giữa một rừng hỏa mù mà toàn đất nước đang chìm sâu:
a) Cuộc đại tấn công là “điểm” chính đối với các sư
đoàn chính quy Bắc Việt, dùng hết lực đánh phá chiếm đóng các thành
phố, ví dụ như Huế, Kontum, Bình Dương và có thể được là Sàigòn (Như dự
định đầu tiên của mặt trận An Lộc). Chiếm các đô thị lớn, lật đổ cơ cấu
chính trị hành chánh của VNCH, phá bỏ hội nghị Ba Lê. Nhưng như thực tế
đã xảy ra, phía Cộng sản không thực hiện được sự trù tính này. Hội nghị
Ba Lê do đó có kết thúc ngày 27-1-1973 với một thỏa hiệp có thể giải
thích dưới nhiều quan điểm khác nhau.
b) Không thực hiện được dự tính theo phương cách
trên, Cộng sản dựa một chân trên các phần đất đã chiếm được để giải
thích bản hiệp định theo ý đồ riêng. Ý đồ này này được nhận rõ khi Cộng
sản khước từ đề nghị của VNCH về việc ngưng bắn tại chỗ, cấp chỉ huy
chiến trường hai bên gặp nhau, định vùng trú quân tạm thời cho hai bên
trong khi chờ đợi thành lập Hội Đồng Hòa Giải, tổ chức tổng tuyển cử.
Phái đoàn MTGP luôn luôn nhắc đến điều kiện tiên quyết trên của MTGP;
vậy chúng ta cần mở một cánh cửa mới để tìm hiểu thêm một sự kiện khả
thể khác, một dự phóng đi xa hơn các điều 9 và 12 của Hiệp Định (Về
quyền tự quyết của miền Nam và tinh thần hòa giải giữa các phe). Để hiểu
rõ sâu xa và cụ thể hơn, chúng ta xét đến chi tiết của từng vùng tạm
chiếm.
Vùng đất tiếp giáp nam Quảng Trị, vùng đồi từ phía
nam Khe Sanh, Hương Hóa càng về phía nam càng đi ra gần biển. Bắt đầu từ
Văn Xá núi chỉ cách đường số 1 khoảng mươi cây số đường chim bay. Truồi
và Cầu Hai, Trường Sơn đi song song với bờ biển và cuối cùng mõm Hải
Vân, ranh giới thiên nhiên giữa Thừa Thiên và Quảng Nam. Trong vùng núi
đồi này, cộng quân đã bố trí sư đoàn 325 từ Khe Sanh xuống đến vùng Cổ
Bi, Hiền Sĩ (An Lỗ,Thừa Thiên - Huế) và từ đây sư đoàn 324B (đã có mặt
từ lâu) nối tiếp hoạt động sâu xuống phía nam hướng A Sao, Thừa Thiên.
Trên trăm cây số đường núi song song với quốc lộ 1 từ Quảng Trị đến A
Sao có các đường 518, 547, 548, 561 trước kia chỉ là những đường mòn di
chuyển bộ binh, nhưng từ sau ngày 27-1-73, khi các mặt trận chấm dứt,
Cộng quân dồn nỗ lực khai thông và kiến tạo hệ thống đường mòn trên,
nhất là đường giao liên T7 (Đường về A Sao hay căn cứ địa 611) thành
những con đường rộng rãi trải đá để xe Molotova có thể di chuyển. Từ A
Lưới, cách biên giới Lào Việt chừng mười cây số, đường giây T7 có một
đoạn rẽ sang mặt để nối vào lộ 922 trên đất Lào. Đường 922 là một nhánh
rẽ của đường 92 hay binh trạm 36 thuộc đường 559 hay cũng là đường mòn
Hồ Chí Minh, đường dây Xã Hội Chủ Nghĩa. Thung lũng A Lưới, A Sao vốn có
sẵn ba phi trường; Phi trường A Lưới, Tà Bạt thuộc loại lớn, máy bay
C130 có thể xuống được nếu có hướng dẫn, nay nếu hoàn tất thêm hệ thống
đường bộ thì vùng núi non này không còn là một vùng bị cách trở với các
thị trấn miền biển, lại càng gần gũi hơn với các vùng nội địa Đông
Dương. Trên thực tế, vùng này nằm ngang với Đà Nẵng trên một vĩ tuyến,
(cách vĩ tuyến 16 khoảng một trăm cây số về hướng bắc) và cũng là trung
bình điểm của vùng đất kể từ Đà Nẵng vào đến biên giới Lào, Thái. Phi
trường A Lưới, Tà Bạt còn được ghi nhận là phi trường của mọi thời tiết.
Từ A Sao, Cộng quân đang dồn mọi nỗ lực để nối tiếp đoạn đường sạn đạo
xuôi Nam. Đoạn Khe Sanh, A Sao tuy được thiết lập trên những đỉnh Trường
Sơn, vùng Triệu Phong (Quảng Trị), Nam Hòa (Thừa Thiên), nhưng vùng núi
non này tương đối dễ dàng với những đỉnh núi cao chỉ trên dưới ngàn
thước như ở thượng lưu sông Mỹ Chánh ranh tỉnh Quảng Trị, Thừa thiên.
Đoạn đường phía nam A-Sao thì gai góc, khó khăn hơn, ranh Thừa Thiên,
Quảng Nam từ Hải Vân trở vào đất Lào là một chuỗi núi trẻ, cao độ trên
một ngàn thước chập chùng tiếp nối vào nhau với những sườn dựng thẳng
đứng đổ xuống các thung lũng hun hút, mở đầu cho những nhánh thượng lưu
của hệ thống sông Buông, sông A Vương, sông Côn... Nhưng Cộng quân đang
khai triển tối đa khả năng nỗ lực của cán binh và dân công phần đông là
tù binh VNCH để khai rộng con đường 458 hầu nối hết những nút cuối của
chặng đường mà tiền nhân xưa đã một lần xử dụng: Con đường nối vùng núi
rừng Kontum theo trục Kontum - Quảng Nam - Thừa Thiên - Quảng Trị, nay
được hiện đại hóa bằng các địa danh mới: Khe Sanh - A Lưới - A Sao - Đại
Lộc - Darkto, bởi một hệ thống đường giây: 547, 458, bắc quốc lộ 14(Bắc
Kontum). Đầu và cuối của hệ thống này được mắc nút vào hai trụ của
đường dây Xã Hội Chủ Nghĩa. Cần mở thêm một ngoặc đơn ở đây để xác nhận
thêm ý định của địch, trong những địa điểm mà Cộng sản đưa ra để trao
trả tù binh có vị trí cách Hà Tân (Quảng Nam) mười cây số đường chim bay
về hướng đông và thung lũng Hà Tân chính là điểm nối của đường 458 với
cực bắc của đường 14 chạy từ Kontum lên.
Từ vùng Tà Lơn, Hà Tân của vùng Quảng Nam này, công
việc xuôi xuống đồng bằng sông Thu Bồn (Vùng Duyên Hải Quảng Nam) hay
theo quốc lộ 14 để vào Nam (Bắc của Kontum) không vấp phải trợ lực của
thiên nhiên nào đáng kể. Con đường 14 của đoạn này lại cập theo con sông
Cái chạy giữa một thung lũng trống trải, chỉ cần sửa chữa với các
phương tiện tối thiểu cũng xử dụng lại dễ dàng.
Chúng ta vừa đi qua một vùng địa thế bao gồm các
phần đất thuộc các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín,
Quảng Ngãi, Kontum và Bình Định với hệ thống đường giao liên 518, 516,
517, 548 (Vùng Khe Sanh), 458 (Vùng ranh Thừa Thiên - Quảng Nam), đường
số 14, liên tỉnh lộ 5 (Nối Kontum À Quảng Ngãi) và đường dây 514 (Nối
Quảng Ngãi - Bình Định: Từ thung lũng Gia Vực đến thượng lưu sông An
Lão), đường dây này Cộng quân đã xử dụng để chuyển chiến xa từ vùng ba
biên giới xuống tham chiếm mặt trận Hoài Ân hồi tháng 5-72. Hệ thống
đường đã và đang được tu sửa lại để có một trục lộ giao thông song song
với quốc lộ 1 xuyên qua vùng núi non của năm tỉnh cực bắc VNCH. Hồi
chánh viên Trần Đức Cường đã nói rõ hơn về đoạn bắc con đường: “Hiện họ
(Cộng sản) đang khai dụng theo một đường mới ở dãy Trường Sơn từ Quảng
Trị đến Quảng Nam, ba tiểu đoàn dân công được xử dụng để sửa sang lại
đường xâm nhập này và phi trường A Lưới. Từ bốn tháng nay, kể từ
27-1-73, chiến xa hạng nặng bắt đầu di chuyển rầm rộ theo con đường này
để từ Quảng Trị vào Nam...”
Điều này chứng minh cho nhận định đầu tiên của bài
viết: Cộng sản không “tha thiết” lắm với các mục tiêu thành phố. Các
thành phố nếu có thể, chỉ là mục tiêu đến sau đối với các sư đoàn chiến
thuật. Và chiến trận đã diễn ra dưới một cường độ hợp lý để không đi đến
điểm nổ cuối cùng. Cả hai bên đều có lý thắng khi giải thích các thành
quả mình đã thu đạt được tại chiến trường (1972). Và hai bên cũng đều có
lý thắng khi giải thích kết quả của Hiệp Định Ngưng Bắn 1973.
Từ những sự kiện được móc nối hợp lý như trên,
chúng ta có thể tìm đến kết luận không xa với sự thật và chính xác: Cộng
sản không thể và cũng không bao giờ từ bỏ phần đất cặp theo sườn đông
Trường Sơn chạy qua năm tỉnh khi họ đã được nối ráp vào nhau thành hình
tượng thực tế. Dãy Trường Sơn chỉ là biên giới thiên nhiên chứ không thể
là biên giới nhân văn hay chính trị khi khối nhân lực ở đông và tây của
dẫy núi cùng trong một lực lượng quân sự mang chung một ý hướng chính
trị. Và như vậy con đưòng giao thông qua vùng Trường Sơn chỉ được quan
niệm như lối đi bình thường trong một xứ sở núi non.
Âm mưu thành lập một quốc gia thứ hai ở miền Nam
không phải chỉ được bộc lộ trong ý hướng tấn công vào các mục tiêu như
đã nói, cũng không phải chỉ hiện rõ ở cách thức củng cố, xây dựng các
phần đất tạm chiếm được, mặc dù ở bàn hội nghị họ luôn luôn chối bỏ ý đồ
này bằng những luận cứ vô cùng tha thiết: “Nước Việt Nam là một, dân
tộc Việt Nam là một... Không có hai nước Bắc và Nam Việt Nam, vĩ tuyến
17 chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời... Đất nước sẽ thống nhất bằng
tổng tuyển cử, hiệp thương, quan hệ hai miền bình thường, thì làm gì có
nước thứ ba, thứ tư được!!” Nhưng luận lý vẫn chỉ là một lối nói, một số
lời nói được học thuộc để xử dụng trong một giai đoạn nào đó, thế nên
những cán bộ có bổn phận ở bàn hội nghị cứ phải nói, phần đằng sau (tức
là vùng Cộng sản chiếm được) vẫn phải xây dựng, củng cố cơ sở, đấu tranh
trên mọi “diện” để làm sao nổi bật được thực tế “vùng giải phóng”.
Con đường xương sống như vừa trình bày đang được
tiến hành và đang được nối dài xuống phía Nam để nối vào đoạn Tây Ninh -
Bình Long - Phước Long qua trục Quảng Đức - Pleiku, (Sẽ trở lại vấn đề
này ở đoạn cuối bài viết).
Chúng tôi tiếp tục trình bày công việc xây dựng
“vùng giải phóng” của Cộng sản... Tại những nơi Cộng sản chiếm được sau
tổng tấn công 1972 như Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà, Tân Cảnh (Kontum), Xa
Mát, Thiện Ngôn (Tây Ninh), Đức Cơ (Pleiku) đều đưọc xây dựng thành
những trung tâm hành chánh, kinh tế. Họ đặt các Ủy Ban Hành Chánh, các
“chính quyền địa phương nhân dân” và xử dụng các danh xưng này thật
nghiêm túc... - Tôi, Thiếu tá Trần Cảnh đại diện chính quyền địa phương
tỉnh Pleiku - Viên thiếu tá mặt xanh mướt vì sốt rét vừa chui từ hóc
rừng Đức Cơ ra đến địa điểm trao trả Đức Nghiệp (Tây-nam Pleiku ba mươi
cây số đường chim bay) đã nói với giọng không chút khôi hài. Không phải
chỉ một mình Trần Cảnh, nhưng toàn thể cán bộ, binh lính Cộng sản đều
phải thực hiện mô thức “Chính phủ Lâm Thời với vùng kiểm soát cụ thể...”
đó. Trong mục tiêu của việc thành lập “nước” thứ hai cho Chánh phủ lâm
thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, Bắc Việt đã đẩy vào Nam hàng chục ngàn
dân chúng thuộc các tỉnh bắc Trung Việt vào định cư ở những vùng Tây
nguyên, miền đông Nam phần, phần phía Bắc tỉnh Quảng Trị, sinh sống theo
phong trào “quê hương mới”, phong trào đặt trọng tâm vào khối cán bộ,
mà đa số là thanh nữ trẻ, những thanh nữ này có “nhiệm vụ” kết hôn cùng
đám binh sĩ trẻ tuổi đã đi vào đây trước, hiện tại đã được biến cải
thành người miền Nam (Những người miền Nam quái dị với giọng nói thổ âm
miền Bắc). Đến đây, chúng ta có thể xác định mà không sợ sai lầm: Khẩu
hiệu “Sinh Bắc Tử Nam” không là một khẩu hiệu “khích động chiến thuật”
nhưng là một “chỉ đạo chiến lược” để hoàn tất cuộc xích hóa miền Nam. Và
như thế, chiến tranh chỉ là một môi trường, quân đội chỉ là một phương
tiện để miền Bắc chuyển khối nhân lực đầu tư vào miền Nam. Vậy, Mặt Trận
cách mạng giải phóng miền Nam, Chính phủ Lâm thời CHMNVN sẽ lần lượt
đóng hết vai trò “chiến thuật” của nó, trận chiến cuối cùng, trận đấu
then chốt vẫn chỉ là chúng ta cùng miền Bắc qua tấm đệm “Mặt Trận”. Hình
như cả thế giới, một số đông của thế giới không nhìn được âm mưu ghê
tởm độc hại này. Nhưng cũng chỉ là một âm mưu rất rõ mặt.
Để tăng thêm cường độ hiện thực cho nước thứ hai
kia, ngưòi Cộng sản ngoài việc lập các nhà máy kỹ nghệ, điện lực ở các
“thị trấn” Xa Mát, Đức Cơ, không quên khai triển hoạt động ngoại giao để
có đủ hình thức một tổ chức quốc gia về cái gọi là Chính Phủ Lâm Thời
CHMNVN. Đại sứ Nga, Trung Cộng, Algérie cũng có màn trình Ủy Nhiệm Thư
lên Nguyễn Hữu Thọ; Chủ Tịch Thọ họp báo quốc tế... v...v... Cộng Hòa
miền Nam Việt Nam đang được ráp nối dần từ mảnh như từng khúc đường
trong vùng núi rừng Trường Sơn trùng điệp.
Ngoài ra, còn có thêm một điều đáng chú ý để làm
mạnh cho luận cứ trên nếu là Cộng sản muốn phá vỡ bản hiệp định bằng
đường lối quân sự thì khoảng thời gian tháng 6-73 vừa qua quả là giai
đoạn chín mùi cho chuẩn bị chiến thuật. Nhưng Cộng sản vẫn không mở cuộc
đánh phá cấp độ lớn, không phải do lòng yêu chuộng hòa bình cũng không
phải bởi tinh thần tôn trọng bản hiệp định mà họ đã ký, nhưng như Nghị
Quyết ngày 10-2-73 của Cộng Sản Bắc Việt đã giải thích tình hình và
đường lối đấu tranh sắp tới không phải thực hiện bởi nòng súng, điều này
cũng phù hợp với nhận xét về cộng sản của J. Honey sau khi viếng thăm
Hà Nội: “Cộng sản Bắc Việt vẫn chủ trương xích hóa toàn thể Đông Dương
(Tuyên bố hôm 27-3-73); có điều sách lược đấu tranh được quan niệm theo
một đường lối khác.”
Vậy theo đường hướng mới nầy, một xứ sở “an toàn”
nằm trên ba vùng đất trung tâm của bán đảo Đông Dương, cuộc xâm lăng
miền Nam Việt Nam của Bắc Việt chỉ còn một khoảng cách chiến lược tối
thiểu để hoàn tất bước chót của ý đồ.
Qua các tin tức từng được phát giác, chúng ta khẳng
định được rằng cách thức sửa soạn của Cộng sản ở phía bên kia giòng
sông Thạch Hãn, trên miền thung lũng Ba Lòng, nơi phía tây cố đô Huế kéo
dài xuống miền Nam dọc theo dẫy Trường Sơn cộng với các tin tức tại
miền Lộc Ninh, các vùng đất từ Tây Ninh qua Bình Long sang Phước Long
với các mật khu Tam Giác sắt, Dương Minh Châu, Hố Bò, Bời Lời.v.v... Các
mưu toan chiếm lĩnh toàn thể vùng núi Thất Sơn tại Châu Đốc, đặc biệt
vùng núi Dài, núi Cấm với những hang động thiên nhiên hiểm yếu, những
trận đánh dằng dai trong sình lầy miền Chương Thiện để tranh giành những
làng xóm hoang vu, những cánh đồng cỏ mọc thay lúa, người ta thấy chiến
thuật của Cộng sản vẫn là không bao giờ để đối phương có thì giờ nghỉ
ngơi, đồng thời chính lực lượng của họ cũng không được phép nghỉ ngơi.
Sự nghỉ ngơi đưa đến suy nghĩ, thắc mắc, so sánh, không có gì lợi ích
cho mục tiêu do các lãnh tụ mà đầu óc đã chai cứng qua mấy chục năm vinh
nhục vạch ra và nay họ phải thực hiện, Các tin tức trong các vùng Cộng
sản tạm chiếm cho biết rằng, ngoài những sự sửa soạn cho đến những quyết
định về những ngày sắp tới. Cán bộ Cộng sản luôn luôn học tập xách lược
đấu tranh chính trị trong giai đoạn mới, cán binh được học tập đấu
tranh võ trang phối hợp chính trị để lung lạc tinh thần dân chúng. Người
Cộng sản còn nhấn mạnh một cách đặc biệt sự huấn luyện các thành phần
dân chúng còn kẹt lại trong các vùng họ chiếm được. Các tin tức cho biết
họ tổ chức đám dân này thành đội ngũ, vừa tuyên truyền vừa dọa nạt,
thành từng đội, từng tổ sản xuất, chiến đấu, thu thuế, dân công v.v...
Họ đã lưu tâm tới đám thiếu niên, vì tuổi trẻ dễ bị kích động, dễ tin
nên dễ lợi dụng. Đây là khối nhân sự có giá trị lâu dài về cả quân sự và
chính trị. Rút tỉa kinh nghiệm từ những ngày tháng đại chiến dai dẵng
của năm 72 và những năm trước, họ tổ chức lại nhân sự, chuẩn bị lương
thực trong tinh thần tự túc tự lực, tái trang bị và tăng cường tối đa
khả năng võ khí tối tân gồm cả chiến xa, đại pháo, phòng không, hỏa tiễn
chuyển vận từ miền Bắc vào. Hiệp Định Ba Lê chỉ như một cuộc dừng chân
tạm nghỉ để người Cộng sản chỉnh đốn lại hàng ngũ và trang cụ. Người ta
cũng thấy sách lược của họ vẫn là sách lược cổ điển, giai đoạn sắp tới,
người ta sẽ không thấy cuộc xâm lăng của miền Bắc tại miền Nam Việt Nam
nữa, nói một cách khác, ý định của một cuộc xâm lược như vậy sẽ được
Cộng sản Bắc Việt né tránh tối đa để người Việt Nam và nhân dân thế giới
hiểu rằng, cuộc chiến tranh khủng khiếp sẽ xảy ra trong tương lai chỉ
hoàn toàn là của “Nhân dân miền Nam Việt Nam”, do cái gọi là “Chính Phủ
Cộng Hòa Nhân Dân miền Nam Việt Nam” lãnh đạo với đất đai và quân lực
riêng, nghĩa là của một quốc gia chống lại một quốc gia”. Nói như vậy để
chúng ta hiểu thế quốc tế “tế nhị” gây nên bực tức cho chúng ta, do
phía Cộng sản tạo dựng thành và thế trận quốc nội từ một lực lượng võ
trang không dân không đất ngày nào, tuy không được công nhận nhưng là
một thực thể khiến cho công cuộc chiến đấu sinh tồn của chúng ta sẽ càng
ngày càng đi vào những khó khăn phức tạp.
Những tin tưởng vào sự kiện Nga Sô, Trung Cộng bắt
tay với Mỹ và cắt chiến phí cung cấp cho Bắc Việt để chấm dứt chiến
tranh (Nếu thật sự đi chăng nữa) cũng chỉ có giá trị giai đoạn; vì sách
lược xâm lăng của Cộng sản luôn luôn biến thái tùy hoàn cảnh. Không thể
nào không xảy ra trường hợp Nga Tàu dù đã đồng ý với Mỹ thôi cung cấp
chiến cụ cho Bắc Việt mà chiến tranh vẫn đột nhiên tái phát khủng khiếp
trong một lúc nào đó. Tóm lại, những chuẩn bị của Cộng sản trong các khu
vực họ tạm chiếm trước ngày 27-1-73 hoàn toàn không có ý nghĩa như một
củng cố cho các vùng đất nầy về mặt kinh tế chính trị để sống trong hòa
bình: Không hề là như vậy!!
Tháng 6-1973
No comments:
Post a Comment